
Ai-Cơ Hoàng-Thịnh
Quỳnh-Trân là biệt hiệu mà cô giáo Thụy ưu ái chọn cho người sinh viên Úc có làn da trắng bóc, mái tóc vàng óng ả, đôi mắt xanh biếc và nét cười khả ái của mình. Quỳnh-Trân rất thích thú và hãnh diện với cái tên Việt này.
Ở ngoài đời, Quỳnh-Trân là một sĩ quan cấp tá oai phong thế nào cô giáo Thụy không được biết; còn trong trường lớp, cô chỉ thấy Quỳnh-Trân là một sinh viên cần mẫn, giỏi giang, chân thực và đa cảm.
Khóa Ngôn ngữ và Văn hóa Việt của Quỳnh-Trân tuy chỉ một năm nhưng rất nặng nề, căng thẳng. Mỗi tuần, ngoài 30 tiếng đồng hồ miệt mài trong lớp với thày cô bạn hữu, Quỳnh-Trân còn phải tự học thêm 30 tiếng đồng hồ trong thư viện, phòng thính thị, hay ở nhà. Học tới nỗi Quỳnh-Trân nằm chiêm bao, nói mớ bằng tiếng Việt luôn!
Các dấu sắc huyền hỏi ngã nặng của tiếng Việt làm Quỳnh-Trân khổ sở nhất. Kế đến là nỗi ân hận phải gửi con vào nhà trẻ, “để nó cứ lây hết bệnh này đến bệnh kia từ các bạn!”
Lắm hôm vào lớp, cô giáo Thụy vừa dứt câu chào hỏi theo thông lệ thì Quỳnh-Trân bật khóc: “Cô ơi, sáng nay bé Danny bị sốt, cứ bám chặt lấy em. Mà em đành phải gỡ tay bé, chạy ra xe, lái đến đây cho kịp giờ học! Chồng em phải xin nghỉ không lương để ở nhà trông bé. Bây giờ trong đầu em chỉ có tiếng bé khóc thét gọi em thôi, cô ơi…”
Có những lần chính Quỳnh-Trân cũng ngã bệnh vì lây từ con và vì áp lực của khóa học. Các bác sĩ ở quân y viện thường ký giấy phép cho Quỳnh-Trân nghỉ vài ba hôm, nhưng có bao giờ Quỳnh-Trân dám nghỉ! Đau mấy Quỳnh-Trân cũng ráng lết đến trường vì canh cánh lo mất bài giảng trong lớp (thiếu bài nào, sẽ phải học bù bài nấy, chứ đâu được miễn!) hoặc hụt một bài thi quan trọng (mà khóa học thì tới tấp những đợt thi kiểm tra, đánh giá và lên cấp!)
Đã mấy phen cô giáo Thụy ngỡ Quỳnh-Trân sắp bỏ cuộc nửa chừng. Nhưng trí thông minh tuyệt vời, nỗ lực vô biên, ý chí sắt đá và tinh thần kỷ luật đã giúp Quỳnh-Trân vượt thắng các trở ngại lớn lao ấy. Quỳnh-Trân đã hoàn tất khóa học với hạng xuất sắc.
Vào ngày lễ tốt nghiệp 5/12/08 vừa qua, khi Quỳnh-Trân bước lên sân khấu, đến trước micro, bắt đầu đọc bài diễn văn truyền thống để bày tỏ lòng biết ơn nhà trường, thày cô và chồng mình, cử tọa đang im phăng phắc lắng nghe, thì trong hàng ghế khán giả, bé Danny khôi ngô giơ hai cánh tay nhỏ xíu lên gọi “Mommy!” Cử tọa bật ra những tiếng cười thương mến và những tràng pháo tay vang động hội trường…
Rồi ngay sau đó, cô giáo Thụy bàng hoàng nghe Quỳnh-Trân nhắc đến tên mình. “I know that fate sent Miss Thụy into my life this year to help me with the challenging workload and motherhood. It really made my life easier knowing that she, as a mother and wife, understood the dilemmas and guilt I felt this year when I had to put study before my husband and son.
I am living proof that any student of hers will be richer in love and life. She has continuously inspired me throughout the year with all of her effort to help me with my Vietnamese and to become a better person. And I am amazed at her contributions to the community - something I am just starting to do at this point in my life.”
I am living proof that any student of hers will be richer in love and life. She has continuously inspired me throughout the year with all of her effort to help me with my Vietnamese and to become a better person. And I am amazed at her contributions to the community - something I am just starting to do at this point in my life.”
Mắt cô giáo Thụy nhòa lệ, tai cô ù đi vì bất ngờ và xúc động. Cả hội trường hướng về chỗ cô ngồi, tiếng vỗ tay lại như sấm rền…
So với đa số các học sinh Việt sinh trưởng tại Úc của cô giáo Thụy, phải công nhận Quỳnh-Trân nghe, nói, đọc và viết tiếng Việt vững hơn nhiều. Trong năm học, mỗi lần đi thực tập ở những nơi có đông người Việt, Quỳnh-Trân đều lập tức gây được sự ngạc nhiên thích thú, rồi sự trầm trồ ngơi khen và thiện cảm đặc biệt của mọi người nhờ tài đối đáp lanh lợi và giọng nói tiếng Việt rất sõi. Riêng cô giáo Thụy rất cảm động mỗi khi nghe Quỳnh-Trân dịu dàng cất tiếng gọi “Cô ơi!” đầy thân ái.
Vốn là một giáo viên Anh ngữ đầy kinh nghiệm trước đây, hẳn nhiên Quỳnh-Trân đã tận dụng sở trường ngôn ngữ của mình trong khi học tiếng Việt. Quỳnh-Trân khéo léo áp dụng vốn ngữ vựng phong phú vào hàng trăm, hàng ngàn mẫu câu đã được rèn luyện nhuần nhuyễn, cộng với những rung động phát xuất từ tâm can mình, để viết nên nhiều bài văn khá xuôi về hình thức và hấp dẫn về nội dung. Dĩ nhiên là cô giáo Thụy đã dùng chính những bài viết của Quỳnh-Trân để tôi luyện cho Quỳnh-Trân khả năng diễn ý tả tình bằng tiếng Việt một cách không những trung thực mà còn tinh tế. Qua nhiều bản thảo, những bài viết của Quỳnh-Trân được hoàn chỉnh hơn, nghĩa là vừa đúng ý Quỳnh-Trân, vừa gần với tiếng Việt hơn. Khi cô giáo Thụy ngỏ ý rằng những bài này đáng được chia sẻ với nhiều độc giả chứ chẳng lẽ chỉ với một người chấm bài là cô, Quỳnh-Trân vui vẻ đồng ý ngay.
Bài Quỳnh-Trân viết về người chồng gốc Phi Luật Tân của mình sẽ là bài đầu tiên trong lọat bài ấy.
Người hùng của Quỳnh-Trân
Cô ơi, trong những giờ Sáng Tác tuần này, Cô cho phép em viết về anh Jonathan chồng em, Cô nhé! Đó là người em thương và phục nhất trên đời. Thương và phục vì nhiều lý do lắm, chứ không phải chỉ vì nét mặt đẹp trai và dáng dấp oai hùng của anh như bạn bè em thường trêu em đâu Cô ạ. Đọc bài này, Cô sẽ hiểu thêm về những lý do đó.
Tuy trẻ hơn em nhưng bao giờ anh Jonathan cũng tỏ ra khôn ngoan, chín chắn hơn em. Có lẽ vì anh đã phải xa gia đình, sống tự lập từ khi còn nhỏ. Thực vậy, năm 16 tuổi, anh từ giã thân nhân, bạn bè và ngôi làng nghèo nàn của mình, một mình lên thủ đô Manila tìm tương lai.
Anh thú thật với em rằng lúc bấy giờ anh chẳng là “người hùng” chút nào. Trái lại, anh chỉ là một cậu bé ngờ nghệch, một thứ country hick với trang phục, cử chỉ và ngôn ngữ thô kệch chẳng giống ai. Nói cách khác, anh rõ là một cậu bé đầy mặc cảm, bơ vơ, run sợ giữa chốn thị thành náo nhiêt đông đúc nhưng chẳng một ai quen.
Anh cậy cục xin được vào học tại một đại chủng viện. Nhưng gia đình quá nghèo, không thể phụ giúp tài chính cho anh, nên chuyến “du học” này đầy bấp bênh sóng gió. Anh đã chấp nhận bất cứ công việc vất vả, thù lao rẻ mạt nào. Anh đã từng phải ăn mì khô ba tháng liền trước khi xin được một chỗ làm thường trực: chạy bàn cho một quán ăn trong chợ đêm. Anh quần quật làm việc, không dám nghỉ tối nào, để kiếm được đủ tiền sinh sống và đóng học phí.
Sau khi đậu Cử nhân Thần học và trở thành một linh mục trẻ, anh bắt đầu đến các làng xa xôi hẻo lánh để tiếp tay với các linh mục địa phương giúp đỡ giáo dân.
Đến năm 23 tuổi, anh xin vào bộ binh và chọn học khoá huấn luyện sĩ quan một năm. Trong khoá học này, anh chịu trách nhiệm trông coi một trung đội. Theo nội quy, mỗi khi có người lính dưới quyền nào làm sai thì anh phải chịu phạt thay. Cách phạt rất ác, cứ như là hành hạ kẻ thù hay tra tấn tội phạm! Chẳng hạn, có lần giảng viên bắt anh đứng trong chiếc thùng chứa đầy nước, rồi bỏ dây điện vào, khiến anh bị điện giật tưởng chết!
Đó là cơn ác mộng riêng của người đội trưởng, còn cơn ác mộng chung của tất cả học viên là cái “tuần huấn nhục” đầy kinh hoàng! Nhằm thử thách sức chịu đựng tột cùng của con người, “tuần huấn nhục” đã thúc đẩy các học viên học hành, tập dượt liên tục bất kể ngày đêm, đến nỗi không còn thì giờ để ngủ và không còn sức để ăn!
Tuy nhiên, nhờ khoá huấn luyện sĩ quan này, anh kết được khá nhiều bạn thân, nhất là bạn phái nữ. Họ rất quý trọng vị linh mục tuyên úy trẻ măng luôn tươi cười, biết kiên nhẫn lắng nghe và có biệt tài nói chuyện. Họ thường thổ lộ với anh những vấn đề riêng tư khó giải quyết, trông đợi nơi anh sự cảm thông hơn là một lời khuyên. Cho đến bây giờ, những người bạn này vẫn giữ mối liên lạc tốt đẹp với anh. Điều đáng nói là họ cũng trở thành bạn thân của em luôn!
Năm 25 tuổi, anh là một trong hai thanh niên Phi luật Tân xuất sắc vượt qua nhiều vòng tuyển chọn gay go, và được cấp học bổng qua Úc học khoá quân sự đặc biệt 18 tháng. Bù lại, anh phải cởi bỏ chiếc áo dòng.
Sang Úc, trước hết anh dự khoá Hướng Dẫn & Làm Quen ở Melbourne kéo dài bảy tuần, trong đó có hai tuần học tiếng Anh chuyên môn.
Định mệnh đã sắp đặt cho anh vào lớp Anh ngữ do em phụ trách!
Ngay từ buổi đầu, anh nổi bật trong lớp, với khả năng nói tiếng Anh trôi chảy, lý luận vững vàng và kiến thức sâu rộng. Em vui mừng thấy lớp có được một sinh viên ưu tú, đứng đắn, giàu nhiệt huyết, làm sinh động không khí học tập, giúp em quên đi sự bối rối hoặc bực bội trước những ánh mắt ái mộ hoặc soi bói, những lời trầm trồ hoặc cợt nhả của đám sinh viên thuộc nhiều quốc tịch khác nhau. Thậm chí, có một ông từ xứ đa thê cứ trơ trẽn tán tỉnh em và công khai xin em bằng lòng cho ông ấy cưới về làm vợ thứ tư!
Trong 18 tháng dự khoá học chính thức ở thủ đô Canberra, thỉnh thoảng anh Jonathan có gửi điện thư thăm hỏi em. Dù bận dạy các loạt sinh viên nối tiếp, em luôn trả lời anh theo phép lịch sự dành cho cựu sinh viên của mình. Em hoàn toàn không ngờ đến những ngụ ý ẩn giấu sau những lời thăm hỏi ấy. Sau này đọc lại em mới hiểu ra, để rồi thầm cảm phục sự tế nhị của “con trai Đông phương” bật cười cho sự vô tâm của “con gái Tây phương”!
Khi chỉ còn bốn tháng nữa là phải trở về Phi Luật Tân, anh quyết định xuống Melbourne thăm em. Anh trân trọng mời em đi ăn tối tại một nhà hàng rất sang. Cuối bữa ăn, anh bất ngờ tỏ tình! Anh thổ lộ là đã yêu em ngay từ giây phút đầu tiên, khi em tươi cười xuất hiện nơi ngưỡng cửa lớp tiếng Anh Chuyên môn. Mái tóc màu nắng, đôi mắt màu ngọc bích và giọng nói trong veo như hát của em đã thu hút hồn anh. Anh bảo anh đã cố gắng tỏ lộ khả năng và đức hạnh sẵn có, làm cho mình nổi bật trong lớp, với hy vọng được em chú ý. Lần đầu tiên trong đời được nghe những lời ngọt ngào đến thế, được nhìn thấy ánh mắt thiết tha đến thế, em sung sướng để mặc hai dòng lệ tuôn trào. Anh hỏi em nghĩ sao về anh, em thú thật là em luôn quý trọng anh và rất hãnh diện được anh để ý và yêu thương.
Sau đó, anh trở lại Canberra học nốt khóa quân sự. Qua điện thư và điện thọai mỗi ngày, tình yêu bắt đầu nảy nở trong tim em...
Rồi anh mãn khóa và phải về Phi luật tân. Thế là càng xa nhau hơn! Chúng em rất buồn và nhớ nhau. Nhưng em hiểu anh còn gánh nặng nghĩa vụ đối với đất nước, một đất nước đang bị nạn khủng bố đe dọa.
Ai cũng có thể hình dung ra nỗi đớn đau khủng khiếp của anh khi anh biết tin người bạn cùng qua Úc học với mình vừa bị quân khủng bố sát hại! Anh đã khóc lặng tiếc thương bạn. Anh đã điên cuồng căm phẫn. Anh đã thề nguyền sẽ trả thù cho bạn. Còn em, trời ơi, em kinh hoảng hiểu ngay rằng chính anh cũng đang là mục tiêu của quân khủng bố!
Sau nửa năm làm việc ở bộ chỉ huy, anh được gửi ra phục vụ trong một tiểu đoàn bộ binh, đóng rất gần sào huyệt của quân khủng bố (vốn tự xưng là New People Army). Anh không nỡ cho em hay tin này, sợ em càng lo thêm. Em đâu biết anh đang phải đối đầu từng giây từng phút với một tình thế vô cùng căng thẳng và nguy hiểm. Em đâu biết hàng ngày anh phải đi tuần tiễu, truy lùng và chiến đấu với những quân địch man rợ và chập chờn ẩn hiện như yêu tinh ma quỷ. Em đâu biết mỗi lần em reo mừng vì nối được điện thoại với anh đều có thể là lần cuối cùng em còn được nghe giọng nói thân yêu của anh trên đời. Em đâu biết trong những giây phút vui mừng đó của em, anh đã phải làm tỉnh, phải pha trò, dù trong lòng đang bấn lọan...
Một năm xa cách nhớ nhung âu lo sao mà dài lê thê! Em khóc lóc van xin anh cho em được gặp, được sống với anh dù chỉ một thời gian ngắn. Anh mềm lòng, vì yêu em và vì chính anh cũng thầm khát khao điều mơ ước đó. Chúng em quyết định kết hôn. Anh xin nghỉ phép để qua Úc làm đám cưới với em. Chỉ được hai tuần phép. Hai ngày trên máy bay, chỉ còn vỏn vẹn mười hai ngày hạnh phúc bên nhau, rồi anh phải trở về với chiến trường Phi Luật Tân!
Mãi đến khi em sinh cháu trai đầu lòng, anh mới lại được nghỉ phép sang thăm vợ con sáu tuần. Sau sáu tuần tận hưởng không khí gia đình đầm ấm, anh quay về với nghĩa vụ và em thui thủi một mình nuôi con. Bé khó nuôi hay em vụng về? Mà sao bé cứ hay ốm đau, và cứ khóc nhèo nhẹo thế này? Em thường khóc theo con, vì quá mệt mỏi, tủi thân và thương nhớ anh.
Đến khi em gầy rộc đi và có dấu hiệu trầm cảm, mọi người xúm lại thuyết phục anh sang Úc sống và chăm sóc vợ con. Đây là một quyết định không dễ đối với anh. Nhiều lý do quan trọng níu chân anh lại. Thứ nhất là danh dự của một sĩ quan chỉ huy ưu tú; thứ nhì là tình thương yêu gắn bó với các chiến hữu đang vào sinh ra tử với mình; thứ ba là lòng quyến luyến đối với quê hương, gia tộc, bằng hữu, ngôn ngữ, văn hoá và những nơi chốn kỷ niệm của mình. Nếu anh nói không, em chỉ đau buồn chứ không dám trách anh đâu. Tự hỏi mình, thì chính em cũng dứt khoát trả lời là không thể rời bỏ nước Úc để theo anh mà!
Cuối cùng, tình yêu và trách nhiệm với vợ yếu con thơ đã níu được lòng anh nghiêng về phía Úc.
Xin cảm ơn Đấng Toàn Năng đã gìn giữ anh qua bao hiểm nguy và dẫn dắt anh trong quyết định trọng đại này.
Em nguyện yêu thương anh suốt đời để đền đáp lại tấm lòng anh, vì anh đã chọn hai mẹ con em.
Ai-Cơ Hoàng-Thịnh
(Giáng Sinh 2008)
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen