Mittwoch, 14. Januar 2009

Tội nghiệp thằng Nhàn! Người Hànội



TỰ TRUYỆN

“TỘI NGHIỆP THẰNG NHÀN”
*Cho thằng Nhàn và cả cho tôi.
Người Hànội

Mới bảnh mắt, tôi đã nghe tiếng điện thoại reo.
- Chào bạn, biết ai không?
- Hi! Biết chứ, “tội nghiệp chú Tám Nhàn”!

Nội cái lời chào hỏi, tôi cũng thấy cảnh trớ trêu trong cuộc sống hàng ngày… Tôi ngán ngẩm cho cả chính tôi!!!
Người xa quê hương ngong ngóng chờ có dịp được nghe và nói tiếng mẹ đẻ hàng ngày. Còn dân địa phương như tôi, mở miệng phải nói Hello, Bonjour… cho có vẻ là dân học thức, dân Tây thuộc địa, hoặc dân Cờ Hoa…

Khi chú Tám Nhàn nghe tôi nói “tội nghiệp chú Tám Nhàn”, hắn đã cười ha hả sảng khoái, như quên đi cuộc sống hàng ngày hối hả chạy theo thời gian tại xứ lạ quê người.

“Tội nghiệp thằng Nhàn!”
“Tội nghiệp cho hắn, hay tôi tự thương tôi?”

Mà tội nghiệp thật! Khi đọc trong web mocay.org, có người bạn từ thủa còn mặc quần hở đũng, mài mòn ghế nhà trường trong năm năm trời bậc tiểu học, nay đã gần 70 mươi – một Bác Sỹ, cái nghề được dân Annamite trọng nể – cũng đã quên đi thân thế, địa vị của mình trong xã hội tại Mỏ Cày, dùng chữ tao, mày thật bình dân, thật chân chất, đầy đủ nghĩa tình bè bạn: “Vì tội nghiệp thằng Nhàn mà tao mới làm …”

Còn tôi, cũng vì tội nghiệp thằng Nhàn, vì tấm lòng tha thiết thương yêu quê hương, thương yêu cái huyện nhỏ nhoi Mỏ Cày nơi chôn rau cắt rốn của hắn, nơi mà tuổi thơ của hắn có những chuỗi ngày dài tràn đầy ký ức, nên tôi đã nhận lời về Xã Hương Mỹ heo hút này, làm cầu nối giữa Hội Khuyến Học (HKH) và nhóm Cựu Sinh Viên Thiện Nguyện Dalat (DUACT) tại Hải Ngoại và trong nước, để hỗ trợ cho các em học sinh nghèo học giỏi tại xứ Dừa này.

Các bô lão địa phương chân tình nói:
- Thấy chú Năm Long về đây, anh em chúng tôi mừng lắm, thấy chú Năm như thấy chú Tám Nhàn.” Và cả người chị dâu, chị Mỹ già nua của hắn cũng rưng rưng nước mắt nhìn tôi như thấy thằng Nhàn xa nhà, mới ở Dalat về quê thăm chị sau những năm học dài đằng đẵng…

Tôi thấy mủi lòng, nhớ lời hắn dặn dò:
“ Anh về Mỏ Cày , nhớ ghé thăm nhà tôi, căn nhà ba gian vẫn rêu phong như xưa, bên trong vẫn giữ nguyên tràng kỷ , tủ thờ cẩn ốc nơi gian giữa ….
Hơn ba mươi năm rồi, thường không đón tiếp ai, ngoài hàng xóm láng giềng hoặc khi có quan hôn tang tế… Anh là người đầu tiên về thăm đó. Có lẽ anh đến thăm lần này chắc chị tôi mừng lắm.
Mừng như thấy tôi về vậy…”

Dấu vết nho phong, tường vôi tróc lở đã đã phủ rong rêu. Tuy bề ngoài đã phai lạt theo năm tháng, nhưng không thể xóa nhòa trong tâm tư hắn. Nỗi buồn lắng đọng trong tôi, nhưng thật êm đềm dịu nhẹ…

Tôi nhớ mấy câu thơ của Viên Linh trong bài “Tang Bồng”:

“Ba năm không về thăm mẹ,
Con về có nhớ con không?
Bốn năm không về thăm chị
Sầu ngửa nghiêng dâng trong lòng! ”

Từ đó tôi là một phiên bản sống của chú Tám Nhàn.
Từ đó xứ Dừa đối với tôi không còn xa lạ nữa.

Và cũng từ đó, duyên nghiệp đã buộc tôi với quê hương đất nổi này. Tôi gọi là đất nổi, vì nơi đây là Cù Lao, xung quanh chỉ có mây trời và sông nước. Vì được mọi người thương yêu và đón tiếp chân tình mỗi khi quay về đây, nên tôi đã tạm nhận nơi này làm quê hương.

* * * *

Duyên đưa đẩy tôi về Trúc Giang – Trúc Giang của Kiến Hòa gần năm mươi năm trước – và nay lại quay lại Bến Tre của bây giờ.
Ôm mộng lang thang, nên cả đời tôi chỉ như cánh chim bay mòn mỏi không chốn nghỉ chân.
Không biết người ta mang cái tên Long, cuộc đời họ có long đong, lật đật như tôi?
Cứ tưởng mượn tiếng thanh nhàn cho cuộc sống thảnh thơi và nhàn nhã hơn… nào ngờ cái tên “thanh nhàn” này lại chẳng thanh nhàn chút nào cả.

Tôi phân vân tự hỏi: “Có lẽ song thân của hắn muốn hắn sau này sống an lành, ngồi ung dung nhàn nhã trong cửa hàng bán thuốc Tây nơi phố chợ, vì mang danh một Dược Sĩ kể ra cũng có vai vế tại miền đất nổi này? ”
Hắn vâng lời, lên Saigòn và thi vào trường Dược…

Nhưng chẳng có con đường nào mà không có khúc quanh!
Vào thời gian ấy, Viện Đại Học Dalat mở phân khoa mới: Chính Trị Kinh Doanh, ngành học có rất nhiều triển vọng.
Một ngành học mới, ẩn hiện nhiều dấu hiệu của tham vọng, cả danh phận lẫn tiền tài, giống như cây Thánh Giá ở tháp chuông nhà nguyện Năng Tĩnh sừng sững trên cao , thấp thoáng trong sương mù giá lạnh…
Một ngành học lôi cuốn cả già lẫn trẻ…
Cha mẹ muốn đầu tư vào con cái, nên đã chọn ngành học thực dụng vừa du nhập từ Mỹ vào…
Tuổi trẻ nhiều tham vọng lao vào như những con thiêu thân…
Và cả những ông cử trượt vỏ chuối nhiều phân khoa thuộc Viện Đại Học Huế, Saigòn cũng quay đầu về núi, về miền cao nguyên để thử thời vận; trong số này có hắn, có tôi… và có trên cả ngàn sinh viên khác.

Không theo lời cha mẹ, lại chạy theo sở thích cá nhân và ôm cái mộng tự lập, nên hắn đã phải lao vào kiếp sống giang hồ anh chị, dù là anh chị nửa mùa!

Cuộc sống thay đổi dần theo năm tháng.
Đã trót sinh trong thời chiến, thì hãy chấp nhận mang đôi giày “botte de saut”.
Hắn cũng cùng chung số phận với bao nhiêu người khác… đều phải bước chân vào trường Sĩ Quan Thủ Đức. Cánh cổng nơi đây luôn sẵn được mở rộng để hốt mọi chàng trai dù tốt nghiệp hay ông cử hụt của thế hệ bấy giờ.

Cuộc đời binh nghiệp trừ bị của chúng tôi chỉ như bọt bèo trên sông nước, mặc cho cơn sóng thời đại liên tục đẩy đưa.

Hay nhờ dở chịu, số phận đâu có chiều ai bao giờ!

Trong đời người có nhiều khúc quanh, chẳng biết nên chọn rẽ ngả nào? Con đường nào rộng thênh thang và đâu là ngõ cụt? Thôi đành mặc gió cuốn đi.

Tôi chỉ tiếp xúc với hắn nhiều sau ngày đất nước đổi thay chính thể, vì cùng chung một mục đích: vượt biên!
Gặp lại nhau trong hoàn cảnh chẳng mấy vui vẻ gì. Tôi mới ra lò cải tạo và còn hắn lang thang trong phiên chợ chiều tại chợ trời thuốc Tây ở Tân Định. Thấy cũng buồn cho hắn, cha mẹ mong con theo học Dược không thành, thì nay hắn lại phải lê lết trong chợ thuốc Tây để mưu sinh!

Bẵng một thời gian dài không liên hệ với nhau, tôi được tin hắn vượt biên. Sau đó biết hắn đã định cư tại Hoa Kỳ.

Kể ra, hiện tại số phận cũng chiều hắn.

Còn tôi, nằm Ấp ở U Minh Hạ (Rạch Giá) cùng gia đình. Vì có con thơ nên vợ tôi về sớm, tôi học tập thêm sáu tháng nữa. Hàng ngày tuy không phải đi lên miền U Minh Thượng làm mương, đốn củi, đốn tràm, nhưng cũng làm vệ sinh trang trại cho tươm tất, sau khi mọi người đi lao động.
Được trở về làm phó thường dân, cũng mừng, nhưng số phận không chiều tôi như hắn.
Tôi lao đao vất vưởng, sống nhờ sức lao động của vợ. Mảnh bằng Cử Nhân CTKD thì vất vào đống hồ sơ cũ để làm kỷ niệm! Thôi đành chọn NGHỀ Lao Động Phổ Thông!

Tôi thay đổi nghề, thay đổi chỗ làm như thay áo: từ lao công quét dọn đến thợ vịn, thợ sơn, thợ điện… dù chẳng qua trường sở nào. Cuộc sống cũng bớt khó khăn dần dần, kể từ khi có phong trào cho nhận quà của thân nhân ở nước ngoài gửi về…
Cả đám nhân viên bưu điện và số người nhận hàng đều cười ồ lên khi món quà đầu tay thử nghiệm với thằng đàn ông như tôi… chỉ nhận được của người chị vợ gửi về: hai chiếc quần lót nữ (slip) và vài hộp thuốc cảm, sốt, kháng sinh dang dở!

Ngày tháng qua đi cuộc sống đã dễ thở hơn.
Tôi vẫn lang thang đi tìm việc, làm nhiều nơi, cũng chẳng hơn gì…
Quà vẫn gửi đều từng quý, nhưng tôi vẫn thờ ơ và linh cảm có điều chẳng lành! Những gói quà đó đang tiềm ẩn một thảm họa âm thầm xé nát tình nghiã gia đình. Khốn nỗi gia đình vợ tôi có tới mười hai anh chị em. Sau ngay chính quyền Saigon tan rã, mỗi người mỗi nơi! Không di tản, vượt biên thì cũng phải học tập cải tạo dù ngắn hạn hay dài hạn.

Khi gia đình vợ đoàn tụ đủ mặt là lúc vợ chồng tôi phải chia tay. Các anh em vượt biên dần dần… và vợ tôi cũng mang hai con bước chân lên máy bay đi thăm thân nhân và định cư luôn ở Pháp.

Thời gian này, tôi như rơi trong khoảng không vô định. Những hình ảnh, những ước mơ đẹp đẽ của ngày xưa bị xé tan thành từng mảnh vụn, hoặc cháy rụi trong ngọn lửa hồng, chỉ còn lại dúm tro tàn trên đất lạnh!
Hồi tỉnh lại, tôi nhìn được mặt trái của hạnh phúc, cũng như của sự khổ đau!
Nhờ vậy tôi nhận ra ước nguyện đã thành: các con được định cư, được học hành, và sống êm đềm trong vòng tay của người mẹ. Con tôi cũng là tôi.

Phúc họa vô lường.
Phúc và họa đều do mình tạo ra như bánh lăn trên cát, chỉ khi nào bánh xe ngừng quay thì vết hằn sẽ không còn nữa…

Chuyện này chỉ minh chứng cho việc tại sao tôi “vác ngà voi ” cho bạn bè không mệt mỏi, cũng như “thằng Nhàn” vác ngà voi cho quê hương Mỏ Cày!

Quê hương của tôi thì xa xôi quá, đổi thay đã nhiều, dân làng thì tha phương trong hai cuộc chiến, đất đai thì phân chia thành từng mảnh nhỏ và đang chìm dần trong quên lãng.
Quê hương không có nhiều kỷ niệm trong tôi vì tôi sinh trưởng ở thành phố.
Cả tuổi thơ gắn bó với Hànội. Tôi chỉ về sống được gần một năm trên mảnh đất quê cha, đất tổ, vào thời gian “chạy loạn ”, lúc phải rời bỏ Thủ Đô khi cuộc kháng chiến 1945 bắt đầu bùng nổ .
Năm sau quay trở về Hànội, đến 1954, gia đình tôi lại phải đóng vai trò “dân Do Thái” ngay trên đất nước mình, ở miền Nam…

Cho đến hôm nay…

Tôi không có những buổi chiều êm ả, được thả diều, bắt bướm trên bờ đê, nhảy lò cò hay đánh khăng, đánh đáo, câu cá, tắm sông, bơi thuyền nơi quê ngoại…
Tôi yêu thích những lũy tre xanh bao quanh thôn xóm.
Tôi thèm ngắm nhìn hoàng hôn với ánh nắng quái chiều hôm, quay quắt chảy dài trên đồng cỏ xanh bát ngát…

Nên mỗi lần được bạn bè nhờ đi công tác thiện nguyện về các vùng xa xôi hẻo lánh như xã Bình Minh ở Quảng Ngãi, xã Phú Lợi ở Đồng Tháp, Xuân Sơn ở Bà Rịa, Thủ Thừa ở Long An, hay tìm về ngôi chùa nhỏ Long Phước ở Ninh Hòa…
Tôi nhận lời với cả chân tình và hào hứng.

Và nay nhận lời về Hương Mỹ, về Mỏ Cày của Bến Tre.

Về để được nhìn hàng dừa bao bọc thôn xóm thay lũy tre xanh, được ngắm ánh hoàng hôn lấp lánh qua lá dừa sau mỗi cơn gió thoảng…

Mỗi chặng đường qua, là mỗi duyên nghiệp. Việc dấn thân vào con đường thiện nguyện của tôi cũng không phải là vô duyên cớ. Sau nhiều năm miệt mài trả nợ cơm áo, mà trọn kiếp tơ tằm vẫn trắng tay. Càng đi làm càng thấy chẳng tích lũy được gì! Ngay cả khi làm việc cho bạn bè, lúc ra về vẫn không đồng lương thâm niên dằn túi!.

Nỗi lo buồn cho tương lai tuổi xế chiều càng đè nặng trên đôi vai. Với bao nhiêu năm tháng sống trong cảnh đời đen bạc, phũ phàng, ngang trái, và đầy đắng cay, tôi càng thấm thía về tình người.

Nhớ lời người bạn vong niên, hơn tôi gần hai giáp tuổi, quen thân đã nhiều năm… Một lương y già, nên cụ thông hiểu cả Nho, Y, Lý Số, Kinh Dịch và luận tử vi qua Âm Dương, Ngũ Hành.
- Số mạng của ông là như vậy, có những điều mà ông chưa luận tới… Người xưa thường nói, mỗi người chỉ làm trọn được một việc mà thôi. Còn Phúc, Lộc bất tận hưởng… Ông có nghiệm thấy không?

Cụ ngừng lại, kéo một hơi thuốc lào thật dài, rồi thủng thỉnh nói tiếp:
- Đây nhé, mấy năm trước, ông có phúc được lo cho cha già khi lâm bệnh, được ở cạnh cụ lúc lâm chung, được lau mình, thay quần áo mới để nhập quan. Giờ này, đã ngoài sáu mươi, vẫn còn mẹ già để chăm sóc ông lại có thêm một điều phúc; có con cái sống ở nước ngoài, ăn học thành tài là ba điều phúc. Việc hiếu thảo ông đã làm tròn được, Phúc đức ông đã có. Nay ông còn muốn gì nữa! Còn Lộc ư? Ngần tuổi này mà vẫn kiếm đủ tiền nuôi thân là giỏi lắm rồi! Muốn giàu sang phú quý? Cứ việc bán lương tâm, đổi lấy phúc đức mà ông đang để lại cho các con đi, ông sẽ có đủ…”


Tôi không còn phiền muộn về tương lai. Không ân hận gì trong quá khứ. Đã nhìn được mặt trái của phúc họa, tôi thầm tự nhủ hãy cúi đầu chấp nhận lấy bất hạnh. Cũng không bao giờ quên ơn nghĩa của những ai đã giúp đỡ và chia sẻ vui buồn cùng mình. Bớt được nỗi lo buồn về miếng cơm manh áo, giảm thiểu các nhu cầu cần thiết, tôi thảnh thơi lao đầu vào công việc thiện nguyện, dù nhỏ, dù lớn, dù xa hay gần. Tôi tìm thấy nguồn vui và niềm an ủi. Tâm không còn vướng mắc vào quyền lợi, hay toan tính thiệt hơn. Công việc này giúp tìm lại sinh lực và thấy được mục đích cùng ý nghĩa của cuộc sống: Hãy sống hết lòng với mọi người.

Tôi bỏ nhiều công sức, tìm cách kết nối bạn bè Thụ Nhân K 1 – 2, rồi có nhiều người hỗ trợ quanh tôi… trước là Thụ Nhân nội địa, sau đến hải ngoại.
Một năm sau khi hình thành Quỹ Tương trợ, Trần Quang Cảnh, Nguyễn Đình Cận, Trần Văn Chang, Võ Thanh Xuân, Châu Tuấn Xuyên… đã tạo được diễn đàn Thụ Nhân K1-2.

Từ đó, xa hay gần chúng tôi đã tìm về với nhau.
Nhờ vậy mà tôi lại thấy gương mặt hắn trên diễn đàn.

“Tội nghiệp thằng Nhàn!”

Bộ dạng của hắn tươi tắn hơn, mập hơn, trắng trẻo hơn, chững chạc hơn trong bộ complet. Dù cho đủ cơm no áo ấm và thấm nhiều bơ sữa của của cái xứ Cờ Hoa, nhưng cũng không che dấu hết nét thăng trầm trong cuộc sống cùng dấu vết của thời gian trên khuôn mặt.

Ba năm trước đây, hàng tuần tôi thường ghé nhà Nguyễn Tấn Phước chơi; lúc còn sinh thời Phước nói: “Thằng Nhàn bây giờ thay đổi quá, tớ không ngờ nó viết bài bao quát nhiều vấn đề có chiều sâu cùng ý tưởng sắc bén. Nhưng không biết có còn lóc chóc hay không?”

Tôi thấy thật “tội nghiệp thằng Nhàn”, khi nhìn hình ảnh người vợ trẻ, khi nhìn đứa con trai kháu khỉnh, khuôn mặt ngây thơ, trong sáng, ẩn hiện một tương lai rực rỡ, nhưng mới bẩy tuổi đầu, “Nhàn con”!

“Nhàn Con” chính là hắn, hậu thân của hắn.
Hắn còn phải đầu tư dài hạn, cả vật chất lẫn tinh thần.
Nỗi ưu tư trăn trở trong lòng vào những đêm không ngủ.
Gánh nặng đặt trên đôi vai của kẻ bắt đầu bước vào tuổi về hưu!

Cái may của hắn là gia đình hắn đang sống trong một xã hội ổn định, cuộc sống người già và tương lai con trẻ được bảo đảm. Hắn đang có một cuộc sống an lành.

Cái khó của tôi, dù con cái đã thành tài và có cuộc sống tự lập nơi xứ lạ quê người, nhưng gia đình chia ba ngả ba nơi… Còn tôi, tôi vẫn phải tự lo cho tuổi già và miếng cơm, manh áo!

Có lẽ giữa tôi và hắn có cái điểm tương đồng: cả hai đều không thành công, vẫn sống vất vưởng ở hai phương trời cách biệt Đông Tây, không đói, không no, mà cũng không dư giả.

Để che dấu sự thất bại, che dấu nỗi chua xót đắng cay trong tâm tư, chúng tôi cùng đi tìm một lối thoát dù đó chẳng phải là lối thoát cuối cùng:

Làm công việc thiện nguyện!


Tôi làm thiện nguyện bằng công sức của chính mình, hay đúng hơn chỉ là gạch nối giữa những từ ngữ; chỉ là chất xúc tác cho hai thể chất. Có khi bằng cả hai bàn tay và tấc lưỡi… Ngửa tay xin nơi này chuyển tặng nơi kia. Có lúc như cây cầu bắc ngang qua dòng nước, con sông hay con đường trải nhựa dành cho những bước chân đi…

Còn hắn, hắn động tâm khi đọc bài báo nhắc đến chuyện học bổng nơi quê nhà, hắn muốn góp phần cho Mỏ Cày, để lấp đầy khoảng trống của nỗi nhớ, để níu kéo lại những hoài niệm và để tìm lại quê hương trong nuối tiếc!

Bao nhiêu ký ức về thời thơ ấu cắp sách đến trường… Nhớ những bước chân chim, chân trần nhảy nhót trên con đường đất dọc hai hàng dừa xanh ngát. Nhớ những buổi tắm sông, chèo thuyền ngang các cù lao. Nhớ bến đò chợ khi chờ mẹ về để đón nhận củ khoai, tấm bánh!

Hắn nhớ mái tóc dài buông xõa trên vai nên nhớ cả hòn ngói đỏ ở Thảo Xá Hiền Cung, nơi tu hành dành riêng cho các phái nữ đạo Cao Đài, mà hắn đã thổ lộ trong “Kỷ Niệm Niệm Không Phai ”:
“Nhiều người không chịu nghĩ rằng một miếng ngói cũ cũng chính là vạch nối của thời gian. Thôi thì cái mới để cho ngưới mới. Những du tử mỏi mệt thường quay về chốn xưa sống bằng kỷ niệm”.

Dù sống trên mảnh đất này, mà sao quê hương tôi xa xôi quá, xa vời vợi… Còn với hắn, quê hương lại quá gần: Quê hương trong tâm tưởng!

Tôi nhận lời về quê hương hắn.

Về tham dự tại Hương Mỹ, tuy là lần đầu tiên, nhưng việc cấp phát học bổng này cũng tương đối xuông xẻ và thành công. Tôi cũng nhận được niềm ưu ái vô hạn!

Thế rồi mỗi năm, ít nhất đôi ba lần, tôi lại về thăm quê hương mới.

Năm đó vì việc cấp phát học bổng của Quỳnh Mai còn dở dang, tôi quay về Bến Tre vào ngày giáp Tết…
Phát học bổng xong, chiều lang thang phố chợ…
Mọi người đang hối hả sắm Tết đón Xuân. Còn tôi vẫn lang bạt nay đây, mai đó…
Có lẽ từ nhỏ, quá nhiều mộng mơ nên đã yêu thích lãng du.
Mới mười một tuổi, tôi đã mê mẩn đứng bên cánh gà ở Nhà Hát Lớn Hànội, nghe Phạm Duy dạo dàn Piano bài Thuyền Viễn Xứ, trong dịp Đoàn Gió Nam có ban hợp ca Thăng Long, đi lưu diễn ngoài Bắc.

Vì mê lộ, tôi yêu thích bài thơ Tang Bồng của Viên Linh…
“Nhà người ta pháo đang nổ,
Mình thì này núi mai sông”…

Nên cả đời lang bạt, tuy đôi lúc tôi cũng mong có …
“… một mái tranh, dựa vào nếp sắn, nương khoai của một hai công đất, có hàng dừa bao bọc xung quanh, để được ngắm khói lam chiều, để tìm một cuộc sống dân dã…” ( Duyên Nợ Bến Tre )

Nhưng biết đến bao giờ mới dừng chân?

Ghé qua nhà hắn thăm chị, người chị đi vắng, căn nhà cũ vẫn phủ rêu phong, tôi thấy buồn buồn cất bước chân đi.

Năm nay, chúng tôi tự lái xe gắn máy về Hương Mỹ để dự lễ phát Học Bổng với tư cách đại diện cho Duact.
Chuyến đi này tuy không êm ả vì mưa gió, lạc đường, nên về đến Hương Mỹ quá muộn. Trời tối đen như đêm ba mươi vì sau cơn mưa nặng hạt của buổi chiều, và hơn nữa, nơi đây lại mất điện. Nhưng có bạn đồng hành, anh Hà Văn Đính (K9), nhà tài trợ dài hạn cho Hương Mỹ, nên cũng chia sẻ cho nhau những lo âu và vất vả.
Trời quá tối, anh chị Năm Hưng đứng đón trước nhà cách chừng đôi ba thước mà chúng tôi không nhận ra nhau.
Gặp nhau, khách chủ cùng mừng vui khó tả. Không khác gì năm ngoái khi tôi bước xuống xe đò khi trời sập tối, anh Bỉnh cũng đón tôi tại Bưu Điện Xã, cạnh lô cốt xưa cũ này!
Sau khi thay quần áo, chúng tôi ngồi tán gẫu, nghỉ ngơi chờ bữa cơm “đêm”, thì mọi người trong ban điều hành HKH HM lần lượt tới. Trong lúc trà dư, tửu hậu, chúng tôi được báo cáo ngay chương trình làm việc ngày mai… và sau bữa tiệc chiêu đãi, chúng tôi sẽ lên xe về thành phố…

Khi về tôi không quên ghé thăm chị hắn. Chị đã đi lễ chùa, tôi gửi biếu hộp bánh Trung Thu, coi như đó là món quà dân gian thông lệ hàng năm của “chú Nhàn”.

Trong bữa ăn do Ban Giám Hiệu trường Nguyễn Thi Minh Khai chiêu đãi, chúng tôi được anh Năm Đức ân cần mời về dự chương trình phát Học Bổng sắp tới tại Mỏ Cày do Duact tài trợ. Và ngày đó, có lẽ sẽ có nhiều khuôn mặt mới của Duact cùng đến dự để tham quan và triển khai chương trình này.

Chương trình cấp phát học bổng của HKH Mỏ Cày tuy vẫn tiến hành, nhưng số người tham dự lại có quá nhiểu thay đổi vào giờ phút chót với những lý do ngoài ý muốn. Ngay cả anh Năm Đức cũng bị đau phải năm bệnh viện điều trị, nên việc tổ chức lại phải nhờ anh Năm Hưng tiếp tay.

Tôi thì quá bận rộn, vì sau hai năm hứa hẹn, bây giờ chỉ còn mười một ngày nữa phải tiếp đón bạn bè Hải Ngoại về tham dự lễ Kỷ Niệm Năm Mươi Năm Thành Lập Viện Đại học Dalat và Kỷ Niệm Bốn Mươi Năm Ngày Hội Ngộ của Khóa 1-2 CTKD .
Nhưng tôi vẫn phải về Mỏ Cày cho đúng hẹn.

Tôi vội vã khởi hành, dù chuyến đi này kéo dài hai ngày. Để bớt tẻ nhạt, tôi và Vũ Trọng Thức lo kết hợp tổ chức chuyến du lịch sông nước bằng ghe thuyền; đi tham quan bốn đảo Long, Lân, Quy, Phụng nằm trên sông Tiền, ngăn cách Mỹ Tho với Bến Tre. Nhờ vậy, công tác thiện nguyện của đoàn mười một người chúng tôi đều thấy thoải mái và hài lòng.

Về nhà nghỉ của Tỉnh, đã bốn giờ chiều, nhận phòng, nghỉ ngơi rồi sửa soạn đi ăn cơm tối.
Rất tiếc vì còn mệt mỏi, tôi không có dịp cùng Xuân Phương (K7) đi thăm Quỳnh Mai (K7), không được uống cà phê trong quán Vườn Ổi của gia đình anh Năm Võ, và nhất là không được tham quan Thảo Xá Hiền Cung, nơi mà “thằng Nhàn” đã có một thời được sống trong giấc mơ hồng của tuổi mới lớn!

Tối đó mọi người nghỉ sớm dành sức cho ngày mai.

Qua qua phà Hàm Luông, chúng tôi chờ Hà Văn Đính (K9) và đôi bạn Lê văn Sang (CTXH) để cùng về Mỏ Cày. Xe ngừng trước cổng trường Ché Guevera, ban tổ chức vui mừng chào đón. Mới xuống xe, anh Bỉnh vui mừng ôm lấy tôi, dù chúng tôi vừa gặp nhau trong tháng trước. Chụp ảnh lưu niệm, vào họp dự phát thưởng, mọi thủ tục diễn ra tuy có vấp váp nhưng vẫn coi như thành công êm đẹp.

Cuối giờ, anh Bỉnh dẫn gặp gặp bác sỹ Đang, tôi mở lời:
- Xin chào bác sỹ, tôi là bạn của Nhàn. Nhàn gửi lời hỏi thăm anh và thương nhất câu nói của anh “tội nghiệp thằng Nhàn”. Bác sỹ Đang ngạc nhiên, sững nhìn tôi, Tôi chưa kịp giải thích thì mọi người lên xe đến quán Xuân Mai dùng bữa cơm chiêu đãi.

Tôi chọn chỗ ngồi dùng cơm chay bên chị Mỹ. Nhờ vậy, được biết nhiều người khi đến chào chị. Tôi gặp được người con gái năm xưa mà hắn ca ngợi “Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân” trong Kỷ Niệm Không Phai. Vẫn làn mi cong chiếu nguyệt, vẫn nụ cười tươi vui hiền hậu như ngày trước, tuy đứng tuổi nhưng vẫn còn thấy dáng xuân. Tôi thầm nghĩ: “Năm mươi năm qua rồi, liệu em còn nhớ đến “thằng Nhàn tội nghiệp” của ngày xa xưa?

Chúng tôi gặp Ban Tổ Chức để cám ơn về bữa cơm chiêu đãi, để gửi lời thăm anh Năm Đức và cáo từ về sớm vỉ còn phải đến thăm nhà Chị anh Nhàn, rồi tạt qua Hương Mỹ.
Tôi cũng không quên ghé qua bàn bác sỹ Đang bắt tay từ giã và giải thích:
- Chắc anh không quên câu “tội nghiệp thằng Nhàn” khi nhận lời hợp tác với HKH Mỏ Cày?
Như chợt nhớ lại, anh Đang nhìn tôi cười thoải mái:
- À, à tôi nhớ rồi !
- Một lần nữa rất vui được gặp anh, “thằng Nhàn” nhắn tôi phải đến cám ơn anh, vì anh đã nhận lời hợp tác với HKH Mỏ Cày.
Riêng tôi, tôi cũng cám ơn anh vì nhờ câu nói “tội nghiệp thằng Nhàn” của anh mà tôi có ý niệm viết bài bút ký để trả nợ cho hắn! Lần nào cũng vậy, mỗi khi tôi rời Hương Mỹ, Mỏ Cày, thằng Nhàn luôn nhắc nhở và đòi nợ, bắt bí tôi phải viết bài về những chuyến đi…


Cả đoàn chúng tôi, gần hai mươi người ghé thăm nhà Chị.
Căn nhà ba gian, hiền hòa và trầm lặng từ nhiều năm nay, bỗng dưng có nhang đèn, hương khói, đầy ắp tiếng cười nói, thăm hỏi xôn xao… Hết chụp ảnh trong nhà, trước cửa, lại ra ngoài sân, trước ngõ.

Anh Bỉnh nói: “Mai này anh Nhàn mà nhận được tin và ảnh trên internet, chắc sẽ vui và mừng lắm ”.

Ngoài sân mấy cây Mai Tứ Quý cũng nở hoa. Dù Mai Tứ Quý nở hoa quanh năm, nhưng tháng này, nơi đây, sao hoa lại nở rộ? Có lẽ mùa xuân năm nay như muốn về sớm hơn thường lệ.

Mùa xuân sẵn đến tự trong lòng!
Gương mặt người chị của thằng Nhàn giờ này cũng rạng rỡ tự hào, ánh mắt nhìn tôi như ngỏ ý cám ơn, như thấy thằng Nhàn đã về nhà đón xuân củng chị.

“Tội nghiệp Thằng Nhàn”, giờ này nó vẫn còn tha hương!”

Tôi vội vàng ra xe.
Tôi như muốn tránh mặt mọi người.
Tôi như muốn che giấu một điều khó diễn tả.
Tôi như muốn giữ kín những cảm xúc.
Và cố quên nỗi buồn mênh mang chợt xuất hiện nơi đáy lòng.

Tôi thấy tội nghiệp cho tôi.
Tôi cứ tưởng tôi là thằng Nhàn thật!

Ở Hương Mỹ chúng tôi được đón tiếp với tất cả chân tình của người miền Nam. Lại cũng không thiếu tiếng “một hai ba, DZÔ!”, tiếng cười, tiếng nói, tiếng cụng ly, tiếng va chạm bát đũa.

Riêng tôi vẫn đơn độc bên mấy món chay mà người chị của anh Năm Hưng đã đích thân nấu nướng cho tôi.
Khi về, chúng tôi còn có những món ăn đặc sản: tép rang nước cốt dừa, cá rô kho tộ…
Trên xe cũng không thiếu “chai nước màu nấu bằng nước dừa”, không thiếu cả “thùng kẹo dừa Long Phụng”…
Chúng tôi chia tay trong ân cần với niềm vui gần như trọn vẹn.

* * * *

“Tội nghiệp thằng Nhàn!”

Có lẽ giờ này hắn hối tiếc vì đã xa quê hương, khi viết trong “Kỷ Niêm Không Phai”: “Rời Bến Tre bây giờ so sánh lại, tôi thấy mất mát nhiều hơn bỏ Việt Nam qua Mỹ”.

Tuy không sai, nhưng chỉ đúng nhất thời.
Chỉ đúng khi lòng hắn chợt dấy động những hoài niệm về quê hương và nỗi nhớ. Nhưng ngoảnh lại, nhìn cuộc sống phải chạy đuổi theo chiều kim đồng, hắn vẫn phải lao vào vòng xoáy như những con thiêu thân, không những phải lo cho bản thân cho gia đình và ngay cả cho “Nhàn con” của hắn nữa.

Có lẽ trong những chiều nào đó, chờ vợ, đón con, ngồi trong chiếc xe hơi nơi góc phố, nhìn khoảng trời hiu quạnh, những đám mảy chiều phảng phất bóng hoàng hôn trong khung trời nhỏ hẹp, vuông vức, khung trời cao ngất bị ngăn chặn, tù túng trong bốn block nhà cao tầng, hắn thấy mình bơ vơ, lạc lõng, cô đơn như bị giam hãm quanh bốn bức tường đá của một trại giam nào đó… Hắn hối tiếc vì đã rời bỏ quê hương. Đối với hắn, mỗi khoảng thời gian qua đi, quê hương lại xa thêm, xa dần, xa mãi, xa mãi mãi và chỉ còn trong bầu trời nhung nhớ.


Hắn mơ về cánh đồng xanh bát ngát thẳng tắp cò bay ở quê nhà, mơ thấy hàng dừa bao quanh sân, mơ thấy bến đò ngang bên sông nước, nhớ chợ chiều mọi người xúm xít nói nói, cười cười…
- Anh nghĩ gì vậy? Hay lại nhớ đến cô láng giềng nào? Thôi về đi anh.
Hắn lặng thinh rồ máy và lái xe lao vào con đường phía trước, nối tiếp theo dòng xe chảy dài trên đại lộ hoàng hôn. Hắn phải về với thực tại, phải về nhà thôi, về để người vợ lo bữa cơm chiều, về để thằng con nghỉ ngơi sau buổi học. Hắn lái xe theo quán tính không hồn vì vẫn chạy theo đường mòn, lối cũ của nhiều tháng, nhiều năm… Im lặng suốt chặng đường về. Hình như hắn đang nuối tiếc giấc mơ còn dang dở... Nỗi nhớ thương dấy động tâm tư của kẻ tha hương. Hắn tha phương mới ngoài hai mươi năm, còn tôi, quê hương chìm trong nỗi nhớ gần trọn kiếp người! Dù sống ở miền Nam nhiều trái ngọt, cây lành, mưa nắng hai mùa hiền hòa, mà sao tôi vẫn nhớ thương hình ảnh bốn mùa đổi thay rõ rệt nơi quê nhà xứ Bắc, nhớ lá vàng bay, nhớ cái rét căm căm….

“Tội nghiệp thằng Nhàn!”

Hắn đã trăn trở nhiều tháng nhiều năm khi viết trong bài “Một Thụ Nhân Xám Hối”:

“Đời có nhiều người tốt.
………………………………
Ba mươi năm hụt hẫng trong một toan tính bất năng thành rồi biến thành thấm thía, tôi đã chấp nhận một đời sống ngay thẳng và thành thật đến mức khờ khạo. Để nếu còn có cơ may hội ngộ, tôi sẽ xứng đáng, trước tiên, là chính với lương tâm mình”.

Tôi càng thấy tội nghiệp hơn cho hắn!
Có lẽ khi chấp nhận một đời sống ngay thẳng và thành thật, hắn còn hụt hẫng nhiều hơn nữa… vì hiện tại trong cuộc sống phủ đầy quyền lực, danh vọng, lợi lộc và bạc tiền này không có chỗ đứng cho những người có lương tâm!

Mọi người đều bước qua lương tâm của mình, cùng tranh giành hơn thua, từ lời nói, từ danh vọng đến quyền lợi, từ phương tiện đến tài lộc - dù nhỏ xíu. Để rồi cùng kéo nhau vào ngõ cụt không lối thoát! Thật buồn, cả một đời tôi, tôi đã sống chân chất, sống ngay thẳng mà chẳng tích lũy nổi số tài sản đủ bảo đảm tương đối cho tuồi già. Món nợ cơm áo vẫn còn!

Tôi bám chặt vào đời sống tâm linh để tìm hướng đi riêng cho bản thân. Tôi chấp nhận định mệnh, sống theo nghiệp quả, để an ủi mình, để cúi đầu theo số phận nghiệt ngã! Chạy theo những công việc thiện nguyện để tìm ý nghĩa của cuộc sống và niềm tin!

Nhìn lại tuổi già, nhớ thủa thư sinh, chỉ khư khư ôm lấy mấy chữ: “Tri Túc, Tiện Túc, Tri Nhàn, Tiện Nhàn” của cụ Nguyễn Công Trứ để mà sống!

Hắn than vãn: “Tôi không được suông sẻ như các bạn”.

Nhưng dù đời có bằng phẳng như tôi, thì trọn cả đời tôi cũng chẳng ra gì.
Những vấp trong cuộc sống chỉ như những ổ gà, ổ voi trên đường cái quan, hay đá ngầm trên biển cả. Khi chúng ta vượt qua được thì chúng lại tô đậm thêm cho kinh nghiệm của quá khứ, chứa chất thêm niềm tự hào và lòng tự trọng.

Có lẽ hắn cũng như tôi, chỉ vì chạy theo những suy nghĩ nhất thời, những ước mơ nông nổi không tròn từ thời còn trẻ.
Có lẽ hắn cũng như tôi đã quay mặt với những lời hướng dẫn, những lời dặn dò và những ước vọng của cha mẹ!

Có lẽ cũng vì vậy mà tôi và hắn “Đành phải cùng cúi đầu chiều theo số phận”!

“Tội nghiệp cho thẳng Nhàn”!

Chót mang tên Rồng Bay nên cả đời long đong đã đành, nhưng tôi thấy càng tội nghiệp hơn, khi tên hắn lại là Thanh Nhàn!

Nhưng thật ra …
Tội nghiệp cho thằng Nhàn chỉ có “một”,
Mà tội nghiệp cho chính tôi lại gấp “hai”.

Người HàNội
Tháng 11 - 2008
Vào Thu chưa trọn và Đông chưa tàn.

Keine Kommentare: