Thân Tặng:
Bác Sĩ Trần Quang Hòa
Bác Sĩ Hồ Đình Dư
DS Mừng, Quang
Trợ Y Hiển, Thại, Phước
Để nhớ lại những gian khổ của một thời xa xưa.
Đà Nẵng Ba Mươi Tháng Ba Bảy Lăm là một ngày buồn thảm. Khí hậu đột nhiên trở lạnh, trần mây xuống thật thấp và bầu trời trở nên ảm đạm một cách lạ thường như đang khóc cho số phận của thành phố và những người còn ở lại của thành phố này. Đà Nẵng vừa bị bỏ ngỏ đêm qua. Cũng đêm qua tôi được “móc” lên từ vịnh Đà Nẵng trên một con thuyền nhỏ trong dự định tìm đường về Sài Gòn. Tôi được đưa ngay về Bệnh Viện Đa Khoa vì các “Bác Sĩ và Y tá ở đó đã bỏ đi hết rồi”, những chủ nhân mới của thành phố cho biết như vậy. Phòng Cấp Cứu của Đa Khoa Đà Nẵng đang ở trong tình trạng hỗn loạn vì không có nhân viên, thuốc men và dụng cụ. Sau một ngày thật vất vả, tôi ra về trong sự suy sụp của cả thể xác lẫn tinh thần. Đang lang thang vô định trên đường Độc Lập, tôi chợt nghe tiếng kêu to “Bá! Bá!”. Nhìn lại tôi thấy anh Nguyễn Trọng Trình cùng đi với Trần Quang Hòa. Hai anh lúc đó trông cũng tang thương không kém tôi. Anh Trình cho tôi biết hai anh vừa trở lại thành phố từ bãi biển Đà Nẵng. Trong đêm qua, các anh xuống một chiếc xà lan ở cảng Tiên Sa đầy người và hết sức hỗn loạn vì đạn pháo kích rơi liên tục dọc bờ biển từ Mỹ Khê tới cảng Tiên Sa. “Tao nghe rõ ràng tiếng tiền sát viên điều chỉnh pháo trong đám đông”, anh kể lại. Một chiếc tàu vào sát cảng sâu kéo các anh ra khơi nhưng vì xà lan chở nặng quá, quá nhiều người, tàu không đủ sức kéo nên những người trên tàu đành phải cắt đứt dây nối. Những đợt sóng to đưa các anh vào lại bờ biển. Các anh chỉ còn hai bàn tay trắng vì tất cả đồ đạc đã bị vất đi để dành chỗ cho người lúc xuống xà lan đêm qua. Tôi đưa hai anh về căn nhà thuê từ trước, nay chủ cũng đã bỏ đi Sài Gòn rồi. Lúc đó Quảng Ngãi và Bình Định cũng đã đổi chủ, và tuyến xuôi Nam bằng đường bộ đã hoàn toàn bị cắt đứt. Không một mảy may hy vọng vượt thoát, chúng tôi đành chuẩn bị chờ đón “cái gì phải đến sẽ đến”.
Anh Trình ở cùng nhóm TP với tôi từ năm Thứ Nhất. Anh là người ít nói chỉ ngồi cười cười nên những bạn cùng lớp ít biết đến anh. Nhóm này còn có Phạm Ngọc Bích, Phạm Quốc Vỹ, Nguyễn Văn Đang, Lê thị Minh. Sau này nhóm bạn thân của chúng tôi còn có Trần Quan Côn, Đặng Vinh Quốc, Đào Ngọc Toàn, Lê Văn Dung, Huỳnh Văn Chỉnh. Không như bọn chúng tôi vào Y Khoa thẳng từ Trung Học, anh Trình đã có chứng chỉ MG mà anh rất tự hào và Phạm Quốc Vỹ đã xong Cử Nhân Khoa Sinh Lý Học và là Phụ Tá cho Thầy Trần Vỹ bên Khoa Học. Sau vài năm không thấy anh Vỹ đâu cả, chúng tôi nghĩ anh được chia đi nhóm khác. Sau này tôi nghe nói anh có trở về Sài Gòn nhưng tôi không có dịp gặp lại anh. Tôi có gặp lại các anh Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Thành Công khi tôi về phục vụ tại Bệnh Viện Nhi Đồng và Dương Văn Đầy tại Bệnh Viện Grall khi tôi và một nhóm Bác Sĩ của Nhi Đồng, trong đó có anh “Ninh Con” Trần Xuân Ninh, được chuyển sang đây để thành lập Bệnh Viện Nhi Đồng II, một Bệnh Viện dành riêng để chữa trị cho con em của nhân viên chế độ mới. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, vì bạn bè còn được trọn vẹn sau bao nhiêu bão lửa, nhưng lòng tôi rất ngỡ ngàng vì hoàn cảnh khác biệt giữa các anh và tôi lúc bấy giờ.
Chúng tôi bị gọi nhập ngũ vào khóa 14 Y Sĩ Trưng Tập ngay sau khi hoàn tất kỳ thi Bệnh Lý cuối năm thứ Sáu Y Khoa. Sau một thời gian ngắn ở Trường Quân Y, Khoá 14 được phân phối đi các đơn vị giữa Mùa Hè Đỏ Lửa: Anh Trình đi Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở Huế, anh Dung đi Quân Y Viện Nguyễn Huệ ở Nha Trang, các anh Nguyễn Huy Xương, Long “Sún” ra Tổng Y Viện Duy Tân ở Đà Nẵng và tôi về Trung Tâm I Hồi Lực cũng ở Đà Nẵng.
Năm Bảy Hai được đánh dấu bằng những trận đụng độ ác liệt từ bờ Bắc sông Mỹ Chánh ra đến thành phố Quảng Trị, nhất là cuộc chiến tranh giành quyền kiểm soát Cổ Thành Đinh Công Tráng. Trong suốt trận chiến này thương binh tràn ngập các Quân Y Viện ở Huế và Đà Nẵng. Năm Bảy Ba là năm của Hiệp Định Paris . Trong dịp trao trả tù binh qua sông Thạch Hãn, anh Nguyễn Huy Xương và tôi có cơ hội đãi ngộ anh “Ấn Chòi” Nguyễn Ngọc Ấn và một số các Bác Sĩ đàn anh cùng cảnh ngộ với anh Ấn, lúc các anh tạm dừng chân ở Đà Nẵng trước khi về lại Sài Gòn. Chúng tôi rất xúc động khi nghe các anh kể lại những khó khăn mà các anh đã trải qua trong suốt thời gian hoạn nạn. Năm Bảy Tư là năm của mặt trận Thường Đức, Quế Sơn, những Quận của tỉnh Quảng Nam và ngọn đồi 1062 nổi tiếng.
Rồi chiến sự bùng nổ khốc liệt trở lại vào đầu năm Bảy Lăm, lần lượt Ban Mê Thuột, rồi Pleiku, và Kontum sụp đổ, Quảng Trị và Huế di tản ngày 25 tháng Ba. Hai anh Trình và Hoà theo tàu về Đà Nẵng. Từ doanh trại ở phía Tây phi trường Đà Nẵng, đêm đêm tôi cùng bè bạn đứng nhìn con đường ngoằn ngoèo dọc sườn Nam đèo Hải Vân, từ đỉnh cho đến chân đèo, rực sáng suốt đêm dưới ánh đèn xe của đồng bào Quảng Trị và Huế tìm đường xuôi Nam. Lòng chúng tôi lúc đó tràn ngập những ưu tư cho số phận của đất nước phía Bắc con đèo này.
Chúng tôi bị tập trung và bị đưa qua các trại tù binh ở Đại Lộc rồi Hoà Cầm. Tại trại Hoà Cầm chúng tôi được tin Sài Gòn cũng vừa đổi chủ. Qua thư từ “chui” sau ngày 30 tháng Tư, chúng tôi được biết gia đình của cả ba đứa tôi đều còn ở lại Sài Gòn. Khi nghe tin gia đình bên vợ tôi đã ra đi hết, anh Trình an ủi tôi “ra đi thì kể như đã chết, đã vĩnh viễn từ biệt, nhưng có thể vẫn còn hơn là ở lại vì ở lại thì làm sao mà sống nổi trong hoàn cảnh này”. Hơn ai hết cả ba đứa chúng tôi đều có mặc cảm rằng sự kiện chúng tôi bị kẹt lại tại Đà Nẵng đóng một vai trò rất quan trọng trong quyết định của gia đình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Anh Trình thường nói với anh Hoà và tôi rằng em gái anh làm việc cho Chase Manhattan Bank ở Sài Gòn, và anh nghĩ cô em của anh có khả năng đưa cả gia đình ra đi dễ dàng nếu không vì anh bị kẹt lại tại Đà Nẵng. Nỗi ray rứt này dằn vặt tâm tư anh trong suốt thời gian chúng tôi chung sống trong trại giam.
Không lâu sau đó chúng tôi được đưa về trại tù gần Hiệp Đức, trong tỉnh Quảng Nam . Hệ thống trại tù này gồm năm trại, trại tôi bị giam là trại số năm, nằm sâu nhất trong rừng già. Rừng vùng này dày đặc, và thâm u. Ánh sáng mặt trời không xuyên qua được khe lá. Bốn bề cùng một màu xanh đen sậm, dày đặc đến ngộp thở.
Rồi anh Hoà bị tách ra để về phục vụ tại bệnh xá Tổng Trại cách chúng tôi chừng ba cây số, từ đó sự liên lạc giữa anh và chúng tôi rất hạn chế trừ những dịp chúng tôi chuyển bệnh về Bệnh Xá. Sự ra đi của anh Hoà ảnh hưởng rất nhiều trên tinh thần của anh Trình vì hai anh rất gần nhau từ thời còn ở Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Lúc đó anh Trình đang theo học lớp Hậu Đại Học về Molecular Cell Physiology và anh Hoà đang nghiên cứu về Total Parenteral Nutrition, lần đầu tiên được áp dụng trong các QYV. Anh là người được giao cho trọng trách thuyết trình về TPN trong một cuộc hội thảo chuyên môn cho các Quân Y Sĩ toàn quốc do Cục Quân Y tổ chức tại Huế mà tôi có tham dự.
Rừng núi Hiệp Đức là vùng sốt rét rất nặng. Số tù bị sốt rét càng ngày càng tăng, nhưng trong chúng tôi không có ai mang theo mùng để tránh muỗi. Thôi thì “trời kêu ai nấy dạ”. Ai bị sốt rét thì bị, người nào không bị thì cứ thong dong. Lúc đầu tù phải ngủ võng, vì trại trống trơn không có gường ngủ, nền đất thì ẩm ướt không nằm được. Cứ năm mươi tù chia nhau một “láng”, căng võng nằm san sát bên nhau. Sau vài tháng nằm võng, cột sống như cong lại, chỉ muốn tìm nơi bằng phẳng để “giãn” lưng. Sau này tù vào rừng sâu lấy nứa, đập dẹp ra, làm giường ngủ. Tử vong vì sốt rét cũng có. Trong trường hợp tử vong đầu tiên, chúng tôi, tôi và mười anh em tù khác, cứ hai người một đầu luân phiên nhau “võng” anh bạn xấu số gần hai giờ, giữa đêm, trên đường đồi núi để đến bệnh xá Tổng Trại. Lúc chúng tôi đến nơi anh đã rơi vào tình trạng hôn mê. Anh chết vài ngày sau đó vì sốt rét ác tính.
Từ hôm anh chết có một hiện tượng lạ xảy ra trong láng chúng tôi. Đêm nào cũng có anh em nằm mộng thấy anh, “mớ và la chói lói”. Có đêm chuyện này xảy ra hai ba lần, vừa hết anh này lại đến anh khác. Có khuya khoắc gì đâu, bảy tám giờ đêm thôi, đa số chúng tôi còn thức và rầm rì trò chuyện. Khi được đánh thức, các anh đều nói “tao thấy thằng PS về đứng dưới chân và đưa võng cho tao”. Láng chật cứng, có chỗ đâu mà đưa mà lắc. Những anh em đó là lính chiến đầy trận mạc, thấy cái chết hằng ngày, chứ phải là dân thường đâu mà nói họ sợ ma. Hiện tượng này kéo dài một thời gian khá lâu rồi vơi lần, và mất hẳn.
Độ một tháng sau ngày anh chết, mẹ anh từ Sài Gòn một thân một mình tìm đến trại nơi chúng tôi bị giam giữ. “Nó về báo (mộng) cho tui biết nó chết rồi. Nó nói tui ra Đà Nẵng đem xác nó về chôn”. Cụ Bà được Ban Quản Lý trại cho tiếp xúc với chúng tôi, nhưng trước đó chúng tôi đã được lệnh không được tiết lộ tin anh đã chết mà phải nói là anh được chuyển đi trại khác.
Ban Y Tế của trại gồm có anh Trình, anh Dư, và tôi. Chúng tôi còn có hai dược sĩ và hai trợ y phụ giúp. Thuốc men của trại thì không có gì. Cả năm trăm tù mà chỉ được có mười lăm viên aspirin mỗi tháng. Con số này không đủ cho những trường hợp đau răng nặng. Sốt rét thì có quinine viên. Ngoài ra thì cứ “khắc phục”. Các anh dược sĩ giúp ích rất nhiều trong việc tìm thuốc. Thuốc do chúng tôi tự bào chế có mật nhân, nhân sâm rừng, lantolin (có chất trụ sinh, chúng tôi được “dạy” như vậy), và vài thứ nữa mà tôi không còn nhớ tên. Trong số này mật nhân và nhân sâm rừng được anh em tù thích nhất vì mật nhân rất hiệu nghiệm, và nước nhân sâm rừng có vị ngọt như nước giải khát. Còn lantolin, chúng tôi không dám cho ai cả, vì không biết nó là gì. Cây mật nhân cao chừng ba thước, chỉ có rễ cái mà không có rễ phụ. Rễ mật nhân được vạt ra thành những mảnh nhỏ, phơi khô, đun với lửa “riu riu” độ một ngày thì uống được. Mật nhân làm giảm đau nhức cơ thể. Chiều chiều sau buổi cơm tối, anh em tù thường xếp hàng trước căn nhà Ban Y Tế để chờ uống mật nhân, mỗi người một “gáo” thẳng từ nồi thuốc còn nóng hổi trên bếp lửa. “Đắng hơn nước khổ qua, nhưng uống vào rồi đêm không thấy đau nhức”. Chúng tôi có làm mật nhân viên, có tên “triện” hẳn hoi trên viên thuốc nhưng anh em cho biết không hiệu nghiệm bằng thuốc nước. Mật nhân viên từ đó được dùng làm quà biếu cho nhân viên nhà tù khi họ đi phép thăm gia đình gọi là chút quà từ rừng núi. Nhân sâm rừng là loại cây thấp tìm thấy trong vùng rừng nhiều bóng mát và gần nguồn nước. Rễ nhân sâm rừng cắt nhỏ, phơi khô, nấu cho đậm đặc có vị ngọt. Ngày Tết chúng tôi sản xuất rất nhiều nước nhân sâm đủ để cung cấp cho Ban Quản Lý, và toàn thể tù trong trại để “ăn Tết”. Chúng tôi được phép của ban quản lý, góp tiền nhờ cai tù mua rượu đế về pha với nước nhân sâm rừng, khi uống giống như rượu thuốc nhẹ.
Phù thũng là căn bệnh phổ thông nhất trong đám tù vì thiếu dinh dưỡng trầm trọng. Khẩu phần mỗi ngày của tù là hai bát, nửa cơm nửa sắn, một bát cho buổi trưa và một cho buổi ăn tối. Gạo “Đại Mễ”, từ Trung Quốc, tích trữ lâu năm trở thành mục nát do đó phẩm chất dinh dưỡng rất thấp. Khi đổ gạo ra từ bao, chúng tôi không thấy màu trắng của gạo mà là một đống “đen thủi đen thui” vì mọt đen nhiều hơn gạo. Gạo được đem đi “đãi” dưới suối để tẩy sạch mọt, và cám, nguồn của B1, do đó cũng trôi theo dòng nước. Thực phẩm thường trực là khô cá hố luộc. Những khô cá hố này cũng đã được tàng trữ rất lâu nên không có mùi vị gì cả. Khô lại rất dai nên khi nhai giống như nhai giẻ rách. Trong mùa bí đỏ, chúng tôi có bí đỏ luộc, sáng cũng như chiều, trong nhiều tháng ròng rã. Lúc quá chán bí đỏ, chúng tôi đâm ra nhớ khô cá hố. Ngày Tết trại tổ chức một toán tù đi đến một bản thượng để mua heo về ăn Tết. Họ đi mất năm ngày, một ngày rưỡi đi hơn ba ngày về vì phải mang nặng. Cặp heo đã chết khi toán về đến trại. Sau gần một năm không có thịt, dù mỗi tù chỉ được một miếng thịt nhỏ xíu, anh em cứ thay phiên chạy ra chạy vào vì bị “Tào Tháo đuổi” suốt đêm.
Sang Bảy Sáu chúng tôi được phép trồng cải xanh để “tăng gia”. Anh em tù chúng tôi được lệnh khai hoang một dãy đồi cao, đốn cây, móc rễ, di chuyển đá núi, dọn dẹp dây leo, bang đất cho bằng phẳng để trồng cải xanh trên đồi xa nguồn nước. “Với sức người sỏi đá cũng thành cơm” chúng tôi thường an ủi như vậy. Muốn đủ điều kiện để trồng trọt, mặt đất phải được san cho bằng phẳng và cảnh “người cày thế trâu” là hiển nhiên vì làm gì có trâu ở đây, chỉ có tù thôi. Muốn cải xanh được tươi tốt, cải phải được bón phân, và phân bón được phân phối thẳng từ các “hố xí hai ngăn” đào chung quanh trại. Anh Trình có một kinh nghiệm “cười ra nước mắt” về chuyện hố xí hai ngăn này. Lúc đó chúng tôi phải đi lao động cùng những anh em tù khác. Công tác của chúng tôi hôm đó là đào hố xí. Anh cai tù khi biết anh Trình là Bác Sĩ ra lệnh “anh là Bác Sĩ, anh xuống đào trước để các anh khác theo đó mà đào”. Anh nói với giọng thành thật và tự nhiên, nhưng khổ thân cho anh Trình, anh có biết hố xí hai ngăn là gì, anh vốn ít nói không biết phải phản ứng như thế nào nên cứ đứng ngẩn tò te, làm các anh em khác được dịp cười “nghiêng ngả”. Anh cai tù không hiểu điều gì nhưng thấy anh em cười cũng cười theo. Sau này khi chúng tôi hỏi lại, anh Y Sĩ trại cho biết hố xí hai ngăn là một chương trình y tế công cộng quan trọng và nhân viên y tế nào cũng phải biết cách đào để chỉ dẫn cho người khác. Chúng tôi cùng cười “à ra thế”.
Cải xanh cũng phải được tưới thường xuyên bằng phân “urea”. Urea được lấy từ những thùng chứa rải rác quanh trại, pha loãng với nước xong tha hồ mà tưới. Ban y tế lúc đầu quyết định không dùng cải xanh từ nhà bếp. Chúng tôi tự trồng một lô riêng, tưới bằng nước suối và không bón phân. Dự định là như thế, nhưng “thiên bất dung gian”, đám cải của chúng tôi bị rầy tàn phá, chúng tôi được lệnh phải nhổ hết để tránh rầy lan sang các đám cải khác. Chúng tôi không còn chọn lựa nào khác, phải dùng cải của nhà bếp, có chết chóc gì đâu, cũng ngon lắm.
Bọn tù chúng tôi lúc này ốm yếu đến cùng cực lại phải chịu cái lạnh tê tái trong mùa đông của rừng núi. Ban đêm chúng tôi nằm san sát bên nhau vì không có đủ chỗ và cũng để giữ hơi ấm. Chúng tôi phải đốt lửa trong nhà để chống lạnh. Anh Trình và tôi cùng chia nhau chiếc mền cũ rách nát xin được của một bạn tù khác. Hai đứa cùng chia nhau chiếc bao gạo mà tôi xin được của nhà bếp. Những bao gạo này rất to và dầy, sau khi giặt sạch sẽ dưới suối là một cái mền rất ấm cho đôi chân về đêm. Lúc tôi còn nhỏ, Ba Mẹ thường kể cho bọn tôi nghe về “Nạn đói Năm Ất Dậu 1945” ở miền Bắc trong đó gần hai triệu người dân chết và những người dân nghèo miền quê không có vải để may quần áo, phải mặc quần may bằng bao đựng gạo. Nghe thì nghe vậy, chứ có bao giờ tôi nghĩ rằng có ngày mình cũng rơi vào tình cảnh túng khó gần như thế đâu. Mà cũng “vai vế” lắm mới xin được bao gạo này vì nó “quí” lắm trong anh em chúng tôi.
Thấy tôi quá tang thương, viên y sĩ trại cho tôi một nửa bát đường mía để “bồi dưỡng”. Bát đường cặn đen kìn kịt, dơ dáy, đầy những rơm rác pha lẫn với cát bụi. Không đũa, không muỗng, không vật dụng gì, anh Trình và tôi chỉ dùng ngón tay “quẹt” rồi “mút” và lắng nghe vị ngọt của đường thấm vào từng cơ quan, từng thớ thịt, từng tế bào trong cơ thể. Lần đầu tiên anh Trình và tôi có được nụ cười thoải mái sau gần một năm tù tội. Không một thức ăn nào, kể cả những thức ăn trong các nhà sang trọng mà tôi đã qua có thể để lại trong tôi cái cảm giác tuyệt vời của bát đường dơ bẩn này. Sau này khi xem phim “The Pianist”, cảnh Wladyslaw Szpilman, chàng nhạc sĩ dương cầm tài ba người Ba Lan gốc Do Thái sau nhiều năm lẩn trốn, chịu bao cơ cực và đói khát được Wilm Hosenfeld, vị Đại Tá Đức Quốc Xã hào hoa, vì ham mộ tài năng dương cầm của anh, cho gói mứt và ổ bánh trên căn gác xếp nơi anh trú ẩn. Anh chàng Szpilman cũng không đĩa, không muỗng, cũng “quẹt” và “mút” như chúng tôi. Nhìn hình ảnh anh lịm đi sau miếng mứt đầu tay tôi không khỏi liên tưởng đến kinh nghiệm ngày xưa “been there, done that”.
Bọn tù chúng tôi luôn bận rộn, ngoài lao động, chúng tôi còn phải “lên lớp”, “làm việc”, hay những buổi khám nhà. Khi học tập chúng tôi chẳng những phải lên lớp mà còn phải dự những phiên thảo luận. Mọi người đều bắt buộc phải tích cực tham gia thảo luận để chứng tỏ lòng thành thực cải tạo để trở thành công dân tốt trong xã hội mới, trong đó có phần tự kiểm điểm những lầm lỗi của bản thân trong quá khứ với sự chứng kiến và điều khiển của cai tù. Chúng tôi bị khám xét rất thường. Đây là biện pháp nhà tù thực hiện để tìm những gì họ gọi là vi phạm nội qui của trại. Tất cả tù nhân phải mang những vật sở hữu của mình bày trên một khoảng trống nhỏ trước mặt, ngay ngoài sân trại để nhân viên tù khám xét, từng món một, giữa con mắt của mọi người hiện diện, mà bọn tù chúng tôi thường gọi là “bày hàng chợ trời”. Trong khi đó một thành phần khác của cai tù đi khám xét nơi ăn chốn ngủ của chúng tôi. Chính trong một lần khám xét này, nhân viên trại tìm thấy Thẻ Căn Cước Sĩ Quan cũ mà anh Trình còn giữ lại. Đây là một vi phạm trầm trọng nội quy của trại, vì những giấy tờ này đã bị tịch thu ngay từ ngày đầu tiên tập trung. Đối với Ban Quản Lý trại, anh giữ chiếc thẻ căn cước này chỉ cho một mục đích duy nhất, “âm mưu vượt trại”. Thẻ căn cước bị tịch thu. Chúng tôi không biết việc gì sẽ xảy đến cho anh, nhưng biết là sẽ rất nghiêm trọng. Đêm đêm anh thường bảo tôi nếu có việc gì xảy đến cho anh, nhớ về cho gia đình anh hay. Nhiều đêm anh và tôi ngồi nhìn ngọn lửa đun thuốc, không ai nói vớ ai lời nào, lòng chúng tôi trỉu nặng với những ưu tư của riêng mình.
Những đêm trăng sáng, trăng ở rừng núi Trường Sơn sáng lắm, sáng “vằng vặc”, bọn tôi ngồi ngắm trăng và rầm rì nói chuyện cho đến tận đêm khuya. Trong câu chuyện nào cũng vậy, cũng kết thúc bằng câu hỏi “không biết còn bao nhiêu con trăng nữa cho đến khi mình rời chốn rừng sâu”. Chúng tôi đếm thời gian qua bằng tuần trăng thay vì ngày tháng. Những đêm không trăng, rừng núi tối đen như mực, nhìn những vì sao lấp lánh và ngắm ánh đèn từ các phi cơ thương mại bay ngang, có lẽ đường Hong Kong Bangkok, chúng tôi than thở “nền văn minh của nhân loại sao thật gần mà cũng thật xa, thấy đó mà thực ra xa cách nghìn trùng” và tự hỏi “không biết cho đến bao giờ mình mới lại được đặt chân lên những chiếc phi cơ này”. Những phi cơ này bay cao lắm, chúng tôi chỉ nhìn thấy ánh đèn mà không nghe tiếng động cơ. Lúc ấy chúng tôi cho là mãi mãi vô vọng vì “cá đã vào rọ rồi” và lại ở “Liên Khu Năm” nữa. Năm 1979, khi phi hành đoàn của chiếc DC 10 của World Airways từ Kuala Lumpur đi Tokyo, trên đường đưa tôi đi định cư tại Hoa Kỳ, loan báo phi cơ vừa vào không phận Việt Nam, nhìn qua cửa sổ, trời không mây, và bên dưới là những dãy núi non trùng trùng điệp điệp của Miền Trung, tôi bất chợt nhớ lại những đêm xa xưa “bây giờ mình ở đây nhìn xuống, không còn như ngày xưa nữa”. Lòng tôi bất chợt chùng xuống với ý nghĩ mãi mãi không bao giờ còn có dịp trở lại thăm nơi này, cho dù nơi đó là cái vũng sâu thẳm của cuộc đời của tôi.
Việc chúng tôi chờ đợi sẽ đến với anh sau biến cố thẻ Sĩ Quan không bao giờ đến, nhưng nó căng thẳng tinh thần anh đến cùng cực. Nó cũng thay đổi con người anh rõ rệt, anh càng thêm ít nói. Có nhiều khi anh ngồi hàng giờ nhìn vào cõi hư không mà không buồn nói với ai lời nào. Từ đó anh càng nghiện thuốc nặng hơn, thuốc Lào. Chúng tôi không có tiền mua thuốc cho anh vì ai cũng là con “Bà Phước”. Anh có chiếc đồng hồ Timex, loại Digital rất hiếm thời bấy giờ, nhưng nhân viên nhà tù không ai mua vì không có tay lái và không có cửa sổ, và chiếc Longine của tôi cũng bị chê. Anh Trình phải sống trên tình thương của những bạn tù khác, vì anh hiền nên anh em ai cũng thương, khi thì người này, khi thì kẻ khác, anh cũng tạm đủ thuốc cho qua cơn ghiền. Anh trở nên chậm đi, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn, vẫn còn hành nghề y sĩ được. Một lần anh sửa khớp cho một anh bạn tù bị sai khớp vai mà không có thuốc giảm đau trước con mắt thần phục của mọi người trong lúc anh bạn kia than “đau tưởng chừng như ngưng thở”.
Ban y tế chúng tôi đi làm việc hằng ngày không có bảo vệ đi theo, có lẽ họ biết chúng tôi không trốn đi đâu được vì rừng núi dày đặc, và mạng lưới an ninh chặt chẽ. Chúng tôi lợi dụng cơ hội này để bắt ốc bắt cua dọc theo suối để “bồi dưỡng”. Cào cào, châu chấu hay bất cứ sinh vật nào còn cử động là không thoát khỏi tay bọn tôi. Trong lao động nặng nhọc và khó khăn thì nhiều mà hiểm nguy cũng lắm. Trong một chuyến công tác cả trại phải vào rừng mang cây về để cất thêm nhà chuẩn bị đón tù mới. Tiêu chuẩn là hai người tù một khúc cây dài, trên ngọn đồi chúng tôi đặt tên là đồi Ba Mươi vì còn một cây pháo 130 bị hư vì bom còn nằm trên đĩnh. Ngọn đồi này nổi tiếng là ẩm ướt, trơn trợt và đầy vắt. Anh Trình và tôi cùng chia một khúc cây. Rõ ràng khúc cây quá sức chúng tôi, hơn nữa con đường rất trơn trợt vì ẩm ướt và đất sét, vả lại chúng tôi không quen với “dép râu”. Hai đứa tôi cứ rơi rớt lại phía sau, vừa đi vừa thở dốc, cho đến khi chỉ còn có anh, tôi, và anh cai tù. Anh này vừa đi vừa nặng lời với chúng tôi một cách thậm tệ “không tích cực lao động, chỉ lo bóc lột nhân dân”. Cho đến một lúc anh Trình không nhịn được nữa “hai chúng tôi là bác sĩ, chỉ biết khám bệnh, không quen làm việc chân tay và không bóc lột ai bao giờ”. Anh cai tù nhượng bộ, cho lệnh anh Trình và tôi khiêng đầu trước, anh đầu sau cho nhanh hơn. Đó là lần duy nhất tôi chứng kiến cảnh cai tù giúp tù binh trong lao động. Trong những mẩu đối thoại sau đó, chúng tôi được biết anh đang học năm thứ hai Đại học Bách Khoa, thì bị gọi nhập ngũ. Từ ngày vào Trung anh chỉ biết có núi rừng. Anh hỏi chúng tôi rất nhiều về Sài Gòn. Anh mơ ước một ngày nào đó anh được viếng thăm thành phố này cho thoả lòng thoả dạ.
Tuy công việc của chúng tôi cho là gian khổ, nhưng còn nhẹ hơn nhiều so với công việc của những anh em tù khác. Trại chúng tôi được chỉ định khai thác gỗ rừng. Gỗ đây là danh mộc thường ở tận rừng sâu. Anh em phải hạ cây, những cây này rất to, thân cây bằng ba tới bốn người ôm, rễ cây nhiều khi cao hơn đầu ngườị. Cây được cắt ra thành từng đoạn khoảng mười thước, cứ ba mươi tù khiêng một đoạn từ rừng sâu ra đến trại cưa. Mỗi ngày họ di chuyển đoạn gỗ chưa đến một trăm thước. Công việc của họ thật vô cùng nặng nhọc. Tại trại cưa công việc cũng không nhẹ hơn. Cứ hai anh cưa một đoạn cây với lưỡi cưa “cá mập”, một trên một dưới các anh kéo cưa hàng giờ không ngơi nghỉ. Các anh cho biết cưa trong một hay hai tuần thì xong một đoạn gỗ. Và khi xong đoạn này thì bắt qua đoạn khác, cứ thế ngày này qua ngày nọ, tháng này qua tháng nọ các anh tiếp tục công tác khai thác gỗ rừng cho trại.
Trong một lần công tác khác, anh trợ y Hiển gần đạp phải con báo nằm ngủ ngày giữa rừng. Anh Hiển vừa la vừa lết về hướng chúng tôi, mặt anh xanh như tàu lá, còn con báo cũng giật mình vì tiếng la, phóng chạy mất dạng. Con báo này thường lảng vảng quanh trại. Vào những đêm trăng sáng, người ta thường thấy nó bơi ngang con suối chính nơi chúng tôi thường tắm giặt mỗi ngày. Một lần nó vào tận chuồng heo định bắt heo con nhưng bị báo động nên bỏ chạy mất. “Chỉ có hổ mới vồ người, báo không tấn công người ta bao giờ” chúng tôi được cho biết như vậy.
Trong chúng tôi anh Dư có lẽ là người chịu “chấp nhận thương đau” và “phấn khởi hồ hởi” nhất. Anh vừa cưới cô vợ trẻ trước khi ra trường. Vợ anh là một nữ ca sĩ rất trẻ và đẹp, anh thường nhắc đến mỗi ngàỵ. Anh Dư thường ao ước có được ngày về để được “ôm” lại cô vợ trẻ “mi” một cái cho thoả “cái nhớ vô cùng tận”. Anh Dư còn trẻ, trẻ hơn anh Trình và tôi nhiều nên mỗi ngày anh theo chúng tôi như một người em kiên nhẫn. Tôi không nghe thấy anh than phiền bao giờ dù phải lặn lội vất vả hằng ngày, có lẽ anh biết có than cũng không ai nghe. Anh lại rất sợ thú dữ và hổ là một ám ảnh thường xuyên cho anh. Những khi chúng tôi đi sâu vào rừng anh thường gây những tiếng động bằng cách gõ đôi rựa sắt vào nhau để “nếu có hổ ở gần chúng cũng chạy đi”. Chúng tôi không dễ tin như anh vì câu chuyện của một toán trong trại chúng tôi. Toán này đi sâu vào rừng để tìm gỗ quí cho ban khai thác gỗ. Họ đi rất xa, nên phải ngủ qua đêm trong rừng sâu, có bảo vệ võ trang theo nhóm. Sáng hôm sau khi anh em dọn dẹp chỗ ngủ mới phát giác chung quanh đầy dấu chân hổ và những bãi nước bọt to lớn. Hổ chưa vồ người có lẽ vì toán khá đông, và có lẽ hổ sợ đống lửa lớn anh em đốt để giữ ấm giữa rừng sâu.
Nhưng không phải lúc nào chúng tôi cũng may mắn như vậy. Ban Y Tế không trực tiếp tham gia chuyến công tác này nhưng được kể lại đầy đủ chi tiết.
“Chúng tôi phải rời trại rất sớm, khoảng bốn giờ sáng, và phải vượt qua con suối chính. Lúc này là mùa lũ, vì mưa nhiều trên nguồn, mực nước dâng cao, và chảy rất nhanh không bơi qua được. Chúng tôi phải dùng mây, loại mây to bằng cườm tay và dài cỡ năm mươi thước để nối hai bờ. Nhóm công tác được chia thành năm toán, mỗi toán mười người vượt suối cùng một lúc. Toán một và hai vượt suối an toàn, toán bốn và năm, trong đó có tôi ngồi đợi trong lúc toán ba vượt suối. Sau khi toán ba rời bờ chừng vài phút đột nhiên có tiếng la hoảng hốt từ giửa giòng suối “đứt dây! đứt dây!”. Trời tối đen như mực, tôi không trông thấy gì. Trong đêm thanh vắng anh em ở hai bên bờ sông gọi tên nhau ơi ới, để biết ai còn ai bị nước cuốn. Tôi ngồi trong hàng lắng nghe từng tên của bạn tù được gọi vừa cảm động vừa lo sợ muốn khóc. Cuối cùng có một tên được gọi nhiều lần mà không có trả lời”.
Người ta tìm thấy anh ba hôm sau ở vùng hạ lưu, một toán tù được cử đi lo việc an táng cho anh ngay tại chỗ.
Mùa Đông năm dó trời lạnh như chưa bao giờ lạnh như vậy, nhưng lội suối trèo đèo chúng tôi vẫn phải làm. Sau một ngày “lao động là vinh quang”, cho dù lạnh ơi là lạnh, chúng tôi vẫn nhảy xuống suối tắm để tẩy sạch “bụi trần ai”. Nước suối lúc đó lạnh như cắt da cắt thịt.
Tháng Tư Bảy Sáu có quyết định đóng cửa trại tù. Chúng tôi nhận được lệnh phóng thích. Cả năm trăm tù đều được thả trong vòng hai tuần lễ, trừ một số rất nhỏ còn lại mà họ gọi là thành phần “không cải tạo được” được đưa đi trại khác ở vùng mỏ vàng Bồng Miêu. Anh Dư và tôi được thả đợt đầu, anh Trình đợt kế, hai tuần lễ sau. Cầm tờ giấy nhỏ xíu, sậm màu, rõ ràng không đủ tiêu chuẩn của giấy trắng, “Giấy Phóng Thích Tù Binh” và “Nay trao trả tự do cho tù binh TNB”mà lòng tôi quặn đau. Anh Y Sĩ của trại đến chào tạm biệt “các anh không phải lo, về rồi các anh cũng ngồi Viện này Viện nọ, chỉ khổ cho thân tôi không biết trôi nổi ra sao”. Anh Trình đưa anh Dư và tôi ra tận cổng trại, chúng tôi bùi ngùi chia tay. Nhìn bóng anh đứng thui thủi một mình, vì các anh em khác đã rời trại đi lao động từ sang sớm, anh Dư và tôi buồn như muốn khóc mặc dù đang “mừng hết lớn” vì cuối cùng rồi cũng được thả. Hai đứa tôi cùng ao ước nếu anh Trình được ra trại cùng lúc với chúng tôi thì vui biết mấy. Về phần anh Y Sĩ của trại, sau này tôi có dịp gặp lại lúc anh đi phép ở Sài Gòn. Anh cảm động gần rơi nước mắt khi vài anh em tù cũ đưa anh đi ăn mì Hải Ký ở Chợ Lớn để kỷ niệm buổi tái ngộ. Khi biết tôi đang làm việc tại Khoa Nhiễm, Bệnh Viện Nhi Đồng Sài Gòn, anh chúc mừng cho tôi. Anh ao ước sẽ được đi học “bổ túc” để trở thành Bác Sĩ, có được chuyên khoa để “ngồi Viện này Viện nọ như các anh”. Tôi ngồi yên lặng không nói gì vì trong tâm tư chỉ mơ đến một chỗ ngồi trên con thuyền nhỏ lênh đênh ngoài Biển Đông.
Đêm trước khi chia tay chúng tôi chia nhau số tiền nhỏ còn giữ lại để lo phương tiện về Sài Gòn. Lo là lo như thế, nhưng suốt lộ trình từ Đà Nẵng về đến Sài Gòn có ai lấy xu nhỏ nào của chúng tôi đâu. Lúc bấy giờ vé xe về Sài Gòn rất khó mua. Phòng bán vé xe chật cả người là người. Sau một năm tù, chúng tôi nhìn quanh thấy gì cũng sợ vì là lần đầu tiên tiếp xúc với xã hội mới bên ngoài. Chúng tôi lúng ta lúng túng không biết phải làm sao, không dám hay không thể chen lần đến cửa sổ phòng vé. Có lẽ thấy bộ dạng “Mán về thành của chúng tôi”, từ quần áo đến phong cách, một anh bạn trẻ đến hỏi chúng tôi cần gì. Khi biết chúng tôi vừa ra khỏi trại tù, anh cầm lấy giấy phóng thích của chúng tôi “để em lo cho các anh”. Anh đi thẳng vào cửa sau của phòng bán vé và nói với những người đang đợi “Mấy ông thầy tôi vừa ra khỏi trại tù, mấy ổng phải về trình diện ở Sài Gòn, cần có vé về cho kịp ngày trình diện”. Không một phản đối giữa những người đang chờ đợi tại phòng vé. Anh trở lại trao vé cho chúng tôi và chúc chúng tôi mau chóng về lại Sài Gòn để “làm lại cuộc đời” và “biết đâu mình còn có ngày gặp lại nhau”. Chúng tôi biết người khác phải trả giá chợ đen gấp hai, gấp ba lần giá chính thức cho một vé về Sài Gòn, và nhiều khi phải đợi hai ba ngày mới mua được vé. Xin chân thành cám ơn anh bạn trẻ mà chúng tôi không hề biết tên. Lúc lên xe tài xế và lơ xe, cũng là lính cũ, nói với chúng tôi “tình thầy trò không bao giờ mất, ngày trước mấy ông lo cho tụi tui, bây chừ mấy ông bị nạn, để tụi tui lo cho mấy ông”. Lời nói của họ rất mộc mạc nhưng chân thành, tình nghĩa của họ lại chứa chan tràn đầy. Anh lơ xe này nói nhiều lắm, anh kể cho chúng tôi nghe mọi thứ chuyện, từ chuyện Đà Nẵng đến chuyện Sài Gòn. Trông hai anh phấn khởi khi gặp bọn tôi hơn là chúng tôi mừng được thả. Lúc xe dừng lại cho hành khách ăn uống dọc đường, gặp ai anh cũng giới thiệu “mấy ông thầy tui mới được thả”, “đừng lấy tiền mấy ổng nghe, mấy ổng nghèo lắm, mới ra tù mà”. Mà nghèo thật, mỗi đứa chỉ có tờ giấy mười đồng trong túi. Lòng chúng tôi ấm lại với tình cảm mọi người dành cho chúng tôi sau một năm xa cách.
Đêm khuya trên Quốc Lộ Một, nhìn bóng cây bên vệ đường vụt biến ngược chiều xe mà lòng tôi trở nên bồi hồi và xúc động lạ thường. Hồi tưởng lại những chuyến đi phép về Sài Gòn lúc trước, bằng Hàng Không Việt Nam, luôn có người đón đưa, nay người xưa đã ra đi biền biệt để lại trong tôi nỗi cô đơn cùng cực. Lần đầu tiên một mình đối diện với thực tế phũ phàng cùng với viễn ảnh của một tương lai mờ mịt và vô định, nước mắt tôi bắt đầu tuôn chảy. Trong suốt thời gian bị giam cầm, tôi chưa bao giờ để rơi một giọt nước mắt cho dù hoàn cảnh khó khăn như thế nào. Những cảm xúc bao lâu nay bị đè nén đến tận cùng đáy lòng, nay vùng thoát khỏi sự kềm chế của tôi, và trong một giây phút mong manh của yếu đuối, tinh thần tôi hoàn toàn bị sụp đổ. Giữa đêm khuya tĩnh mịch lúc mọi người chung quanh đang say giấc ngủ, hai hàng nước mắt tiếp tục chảy và tôi không có một mảy may sinh lực nào để kềm chế. Số phận hẩm hiu, những mất mát sau cuộc chiến, và những gì gọi là “quá khứ vàng son” nay không còn nữa, tiếp tục dày vò tâm tư tôi trong đêm tối.
Anh Trình, anh Hoà và anh Dư có đến Bàn Cờ thăm tôi khi các anh về đến Sài Gòn. Tôi cũng có đến thăm anh Trình nhiều lần tại nhà anh. Bẵng đi một dạo, anh cho tôi biết là anh đang được điều trị tại phòng Ngoại Chẩn Bệnh Viện Chợ Quán. Lần cuối cùng anh đến thăm tôi vào hè 1978, anh rất chậm từ cử chỉ đến lời nói và cách suy tư. Tôi nghĩ là anh đang bị ảnh hưởng của thuốc điều trị cho căn bệnh của anh, lúc đó tôi vẫn nghĩ là một trường hợp depression vì những thực tế phũ phàng sau ngày đổi đời, chứ không nghĩ đến PTSD hoặc một thứ bệnh tâm thần nào khác. Sau này khi Ba tôi tới được Hoa Kỳ, Cụ cho tôi biết là anh có đòi Bác trai chở đến thăm tôi vì “sao lâu quá không có tin tức gì của thằng Bá”. Khi biết tôi đã rời Việt Nam , anh ngồi yên lặng cho đến lúc ra về.
Ở bên này Thái Bình Dương, người ta vẫn còn tiếp tục tranh luận về lý do sâu xa khiến hàng triệu người Việt Nam rời bỏ quê hương trên những con thuyền mong manh bất chấp những hiểm nguy của biển cả cùng với những khó khăn nơi xứ lạ quê người. Đối với chúng tôi, những người còn lại bên kia bờ biển Thái Bình, chúng tôi không có một chọn lựa nào khác. Giáo dục của con cái là nỗi khắc khoải của những bậc làm cha mẹ, nhất là những cha mẹ có cái quá khứ “không sạch” như chúng tôi. Giáo dục Đại học thời bấy giờ chỉ dành riêng cho con em của những người “có công với đất nước”. Lúc đó tôi có nghe về câu chuyện của gia đình Chị Lành và Anh Lượng. Tôi cũng có đến thăm ba mẹ anh Toàn ở Đa Kao, trước khi anh Toàn về lại nhà, và tôi cũng có gặp anh Đức một sáng tinh sương bên lề Đại Lộ Thống Nhất lúc tôi đạp xe từ Bàn Cờ đến Grall làm việc. Anh Đức có cho tôi biết vài chi tiết về chuyến hải trình đầu tiên của anh, và tôi lúc đó đang ở giai đoạn cuối cùng của một cuộc chuẩn bị lâu dài. Tôi rời Việt Nam tháng Mười 1978. Từ đó tôi mất liên lạc với các anh Trình, Dư, và Hoà.
Tôi đến Hoa Kỳ vào cuối năm Bảy Chín, và hoàn toàn bị lôi cuốn vào cái vòng lẩn quẩn của ECFMG, FLEX, internship, residency và fellowship. Thời gian này tôi có nghe tin anh Hoà được tàu vớt ngoài biển khơi và được nhận cho định cư tại Do Thái.
Tháng Bảy 1988 trong dịp Đại Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ tổ chức tại thành phố Anaheim, California, anh Phạm Ngọc Bích, đến từ miền Đông Bắc, cho tôi biết người ta tìm thấy xác anh Trình trên một con sông ở Florida* vài tháng trước đó. Tôi bàng hoàng trước hung tin. Tôi không biết làm sao anh đến được đất nước này và việc gì đã xảy đến với anh. Tôi cũng không có cái may mắn để có thể đến tiễn đưa anh lần cuối. Định mệnh đã vô tình nối chặt cuộc đời chúng tôi trong một năm ngắn ngủi, nhưng tình cảm của chúng tôi trở thành bền lâu. Tôi bắt đầu đặt bút ghi lại câu chuyện này không lâu sau đó. Những chi tiết trong câu chuyện này chỉ có anh và tôi biết. Tôi chưa bao giờ kể lại những chuyện này với bất cứ ai dù là người quen thân nhất và tôi nghĩ anh cũng vậy. Tôi viết để sau này còn nhớ lại những đắng cay mà chúng tôi đã chia xẻ với nhau vào lúc cả hai chúng tôi cùng rớt xuống tận cùng vực sâu thăm thẳm của cuộc đời. Qua những bạn bè biết anh ở Florida , anh Trình đến Hoa Kỳ từ một trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á. Anh không bao giờ hồi phục khỏi căn bệnh tâm thần trầm kha, và tin tức cuối cùng của Phạm Ngọc Bích về anh là chính xác.
Anh Nguyễn Trọng Trình đã vĩnh viễn ra đi. Anh ra đi trong cái im lặng như lúc anh còn sinh thời. Và cũng như khi anh còn sinh thời, có rất ít người thấu hiểu được tâm tư của anh.
TNB
LA 2008
* St Johns River, Jacksonville, Florida.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen