Hoàng Ngọc Nguyên
Viet Tribune
Lịch sử của Trung Quốc thời cận đại là một chương khá rực rỡ sau gần ba thập niên đầu tiên kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chìm trong sự nghèo đói, lạc hậu và áp bức tàn tệ, bóp nghẹt quyền sống, quyền theo đuổi hạnh phúc của con người. Kể từ khi Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình theo đuổi mục tiêu quốc gia “bốn hiện đại hóa”, nước Trung Quốc đúng là đã “mười lần to đẹp hơn”, mở cửa ra với thế giới bên ngoài một cách hào nhoáng. Không có gì phải nói thêm về sự thành công kinh tế của Trung Quốc trong gần 30 năm qua, và cũng chẳng có gì bí mật về những giới hạn của sự phát triển đó. Và khi nói về sự phát triển của Trung Quốc ngày nay, người ta thường dành công hết cho Đặng Tiểu Bình. Điều này có thể chẳng có gì sai, nhưng hàng năm trong hai tháng tư và tháng năm, người ta cũng không khỏi nghĩ đến những giới hạn nơi ông khiến cho lịch sử về sau này – 20-30 năm nữa – không thể không xét đến mặt “tội” của ông sau khi nói đến công.
Những thế hệ người Trung Quốc về sau này - những người nay đang dưới 40-45 tuổi chúng ta có thể gặp ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Hong Kong, hay tại các đại học Mỹ - nay chẳng biết gì nhiều về những người lãnh đạo Cộng Sản một thời “cải cách ruộng đất” và “Cách mạng Văn hóa” sắt máu như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ. Sống dưới chế độ Cộng Sản với một nền văn hóa thực dụng còn mạnh hơn cả ở Mỹ, người ta rất dễ quay lưng lại với quá khứ để dồn sức vào việc khai thác những cơ hội trước mắt. Vì thế, người được xem là “Cha già Dân tộc” hiện nay thực ra chẳng phải là Mao mà là Đặng. Hôm thứ ba, ở bên Mỹ người ta phát hành cuốn sách “Tù nhân của Nhà nước: Nhật ký bí mật của Thủ tướng Triệu Tử Dương” (Prisoner of State: The Secret Journal of Premier Zhao Ziyang). Triệu thủ tướng là người thủ tướng đầu tiên trong thời kỳ đổi mới của Trung Quốc, thay Hoa Quốc Phong vào năm 1983. Vào năm 1987, ông lại thay Hồ Diệu Bang làm tổng bí thư của Đảng Cộng Sản Trung Quốc khi họ Hồ bị họ Đặng cho về vườn và qua đời hai năm sau đó. Nhưng họ Triệu cũng bị thanh trừng vào năm 1989 vì vụ Thiên An Môn. Người đưa Triệu lên chót vót tận đỉnh vũ đài chính trị là Đặng Tiểu Bình. Kẻ đã quản thúc ông tại gia trong suốt 17 năm cũng là Đặng.
Tập nhật ký này được hình thành một cách ly kỳ. Trong thời gian bị giam lỏng tại nhà, ông đã đem hết chuyện đời nói vào trong một máy ghi âm, tổng cộng là 30 băng cát-xét vốn đã thu nhạc thiếu nhi cũng như nhạc opera của sân khấu Bắc Kinh. Có lúc ông nói vào máy trước bốn người đến thăm ông, là những người chứng thực cho những cái băng này chính là ông nói thực. Sau khi ông mất năm 2005, những người phụ tá và ủng hộ ông trước đây đã tìm cách đưa những cuốn băng này ra nước ngoài. Nhưng cuốn sách này không nói gì mới, chỉ nói thêm những gì người ta đã biết hay đã đoán. Ví dụ như trong việc đổi mới kinh tế ở Trung Quốc, tuy rằng Đặng Tiểu Bình là người đứng mũi chịu sào, nhưng người kiến trúc sư thực sự chính là Triệu Tử Dương, vốn là bí thư ở Tứ Xuyên đã thành công trong một số chương trình cải cách nông nghiệp trước khi được Đặng đưa về Bắc kinh làm thủ tướng thay Hoa, là người từng được Mao khen “Có đồng chí là ta an tâm”. Đó là chính trị, đàng sau sự thành công rực rỡ của một người lãnh đạo là một người khác bị cướp công.
Thậm chí trong vụ Thiên An Môn, mà nay người ta đang kỷ niệm 20 năm biến cố này theo cách riêng của từng người, cuốn sách này cũng chỉ xác nhận thế lực mạnh mẽ, bao trùm của những phần tử bảo thủ chủ trương cứng rắn để giải quyết vụ chiếm đóng quãng trường này của lực lượng sinh viên, thanh niên phê phán tình hình tham nhũng và thiếu dân chủ. Cuốn sách cũng phơi bày thái độ chính trị thực sự của Đặng Tiểu Bình trong vụ này. Triệu Tử Dương thì cho rằng những người xuống đường không có ý lật đổ chế độ mà chỉ đòi hỏi những cải cách dân chủ và sửa sai trong chính quyền theo trào lưu đang lan rộng ở những nước cộng sản như Liên Xô và các nước Đông Âu. Do đó ông chủ trương đối thoại là bước đầu tiên để ổn định tính hình. Sau cuộc họp ngày 17-5-1989 tại nhà Đặng theo yêu cầu của Triệu, mà ông tưởng sẽ là cuộc đối thoại riêng giữa hai người nhưng lại đông đủ tất cả những thành viên trong Bộ Chính Trị đến chầu, Triệu biết rằng không những cách giải quyết vụ Thiên An Môn đã được định đoạt theo chiều hướng đàn áp của những phần tử cứng rắn mà đứng đầu là Lý Bằng, con của Chu Ân Lai, mà cả số phận của ông cũng đã an bài.
Nếu người ta còn mơ hồ về vai trò của Đặng trong vụ Thiên An Môn, hoặc là ông đi theo ý kiến của đa số phần tử bảo thủ cứng rắn hay chính ông là lãnh tụ của khối bảo thủ cứng rắn này, ta chỉ cần nhớ con người nổi tiếng với câu nói “mèo đen hay mèo trắng…” và “một số người phải cho họ giàu trước” chẳng những đã không hề nhìn lại quyết định Thiên An Môn thời đó mà còn chẳng hề biết có Triệu còn sống trên đời này trong những năm sau đó. Chỉ vì một chủ trương đối thoại với những người “bất đồng chính sách” mà bao nhiêu công lao của Triệu Tử Dương đều bị quăng vào thùng rác lịch sử và ông còn trở thành một kẻ “bất đống chính kiến” với số phận cực kỳ hẩm hiu như ta thấy. Nước đã cuồn cuộn chảy qua cầu nhưng người ta không thể đối xử nhân bản hay tình cảm hơn một tí đối với một đồng chí của mình. Từ Giang Trạch Dân sau này thay Triệu đến Hồ Cẩm Đào hiện nay. Chẳng ai nhắc đến Triệu Tử Dương khi ông còn sống. Chẳng ai nghĩ đến việc ông “đền tội “ như thế đã đủ, để có thể cho ông ra ngoài phố phường rong chơi một tí vào tuổi gần đất xa trời. Và khi ông chết, chẳng có được một lời ai tín tử tế: Đồng chi Triệu Tử Dương, nguyên Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, nguyên Tổng bí thư của đảng Cộng Sản Trung Quốc, đã qua đời vì tuổi già, bạo bệnh, mặc dù đã được các bác sĩ của đảng, của nhà nước đã tận tình cứu chữa…”. Chỉ có báo Mỹ là nhớ đến những gì ông đã làm được và không làm được.
Nhìn về mặt lịch sử, năm 1989 đúng là một cơ hội vĩ đại đã bị bỏ lỡ, bởi vì sau đó 20 năm, có nghĩa là cho đến nay thì những người chủ trương bảo thủ, cứng rắn, kiên trì với đường lối “chủ nghĩa xã hội với sắc thái Trung Hoa” vẫn chưa cho người dân trong nước thoáng khí hơn tí nào. Năm 1989, ở bên Liên Xô, chỉ có một mình Tổng bì thư Mikhail Gorbachev mà thay đổi được cả vận nước. Cuộc vận động Perestroika và Glasnost của ông đã làm cho người Nga nhanh chóng thấy có một cơ hội tuyết tan do đó mà ông đi được đến cùng trong cuộc vận động giải thể chế độ Cộng Sản không những ở Liên Xô với 14 nước trong liên bang mà cả khối Cộng Sản Đông Âu. Năm 1989 là một năm lịch sử. Với tư duy mới về đối ngoại cho phép các nước Cộng Sản Đông Âu được quyền dân tộc tự quyết, cách mạng “dân chủ tư sản” đã diễn ra từ nước này đến nước khác: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari, Đông Đức, Rumani, Bulgaria. Liên Xô chỉ có một Gorbachev. Trung Quốc có đến hai người là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương. Nhưng Gorbachev có Yeltsin. Hồ và Triệu chẳng may có bậc quốc phụ họ Đặng và bị ông này ngáng chân. Bởi thế mà những gì người ta tưởng sẽ có thể xảy ra ở Trung Quốc sau những gì đã xảy ra ở hàng loạt nước Công Sản Đông Âu vào năm đó rốt cuộc chẳng những không xảy ra mà từ đó cho đến nay những người lãnh đạo Cộng Sản ở Trung Quốc đều xin chừa, không còn ai có bất cứ một tư tưởng nào tiến bộ hay mơ màng chuyện dân chủ hóa cả.
Những người lãnh đạo Trung Quốc chẳng những làm hại những người có khát vọng dân chủ của Trung Quốc mà còn làm hại “tiến đồ” của Việt Nam vô kể.
Năm 1986, Nguyễn Văn Linh được bầu làm tổng bí thư của đảng kế vị Trường Chinh sau Đại hội VI là đại hội đổi mới kinh tế phù hợp với những thay đổi bên Liên Xô. Cùng chủ trương đổi mới kinh tế là ý hướng “cởi trói” giới báo chí, văn nghệ để cho những người trong hoạt động này có thể đóng một vai trò tích cực trong việc thúc đẩy đổi mới. Ông Linh đã đưa ra những chủ trương như “lấy dân làm gốc”, ông viết một cột báo “những việc cần làm ngay”, làm cho nhiều người nức lòng. Nhưng chẳng bao lâu, ông và những người miền bắc trong Bộ Chính Trị trở nên bồn chồn, đứng ngồi không yên, lo sợ tình hình “chống phá cách mạng” của “bọn phản động ở Vác-xa-va và Matxcơva”, cho nên mới hé cửa một tí đã sợ gió độc tràn và vội vàng khép lại và còn ăn chắc hơn bằng cách khóa lại và liệng chìa khóa đi.
Vào thời đó, một nhân vật đang nổi lên sáng giá là cặp bài trùng Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Trần Xuân Bách, đều là ủy viên cao cấp hạng 5, hạng 6 trong Bộ Chính Trị. Ông Bách là một nhân vật lý luận hàng đầu trong đảng, được xem là một ứng cử viên tổng bí thư trong tương lai, sau khi ông Linh rút lui vào năm 1971. Nếu ông Bách làm tổng bí thư, có khả năng ông Thạch làm thủ tướng. Ông Thạch nổi tiếng là một chiến lược gia trong lĩnh vực đối ngoại, có lập trường “chẳng bao giờ tin được Trung Quốc” và chủ trương tìm thế cân bằng trong tình hình mới bằng cách tăng cường quan hệ với các nước phương Tây. Ông Bách thì đầu năm 1989 cổ vũ cho chủ trương “đa nguyên chính trị”. Nếu ông chịu khó chờ hai ba năm nữa khi có Đại hội VII mà ông có thể được cử làm tổng bí thư có phải hay hơn không. Đúng là trong chính trị, sai một ly đi một dặm. Bắt đầu thì người ta chờ đợi xem tình hình Liên Xô và Trung Quốc như thế nào cho nên cứ để cho ông Bách tha hồ nói. Nhưng người ta thấy tình hình Liên Xô có vẻ đã ngoài vòng kiểm soát, trong khi Bắc Kinh làm cứng với những người đòi dân chủ hóa ra được việc. Cuộc đàn áp ở Thiên An Môn được Hà Nội công khai hoan hô. Triều đình Hà Nội từ đó mạnh dạn quyết định thanh trừng Trần Xuân Bách, bị cởi áo mũ bắt từ quan và đuổi về quê quán ở Hải Dương.
Nếu ông Bách được cánh phía nam trong đảng ủng hộ thì còn có thể có cuộc tranh cãi giữa hai con đường. Nhưng ông Võ Văn Kiệt vào lúc đó đang xất bất xang bang vì ông Linh muốn triệt ông. Mặt khác, ông Kiệt trong lòng căm hận ông Linh đã giao cho Đỗ Mười chức thủ tướng sau khi để cho ông Kiệt làm quyền thủ tướng cho đã sau khi ông Phạm Hùng thủ tướng chết ngang vào đầu năm1988. Cho nên ông Kiệt hầu như lại “liên minh chiến thuật” với Đổ Mười để đánh gục đối thủ của ông Mười là ông Bách (chức tổng bí thư) và đối thủ ông Kiệt là ông Thạch (chức thủ tướng) và kẻ thù chung của hai người (Mười và Kiệt) là ông Linh.
Từ bài học Thiên An Môn mà Việt Nam học được ở Trung Quốc, Hà Nội càng thấy có thêm lý do để xem Bắc Kinh như Thiên triều. Nếu năm 1989, Đặng Tiểu Bình hành động khác đi trong vụ Thiên An Môn, người ta chẳng hiểu Trung Quốc ngày nay ra sao, Việt Nam ngày nay ra sao, và thế giới sẽ như thế nào nếu không còn có những chế độ dở dở ương ương nữa.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen