Quế Anh
Bố tôi H.O.4. Gia đình chúng tôi đến Hoa Kỳ vào tháng 10, năm 1990, tạm xem là những đợt H.O. đầu tiên. Năm đó tôi 16 tuổi. Hai tuần sau khi đến Mỹ, tôi cắp sách đến trường, tiếp tục học lớp 11 thay vì học lùi lớp theo lời khuyên của người cố vấn giáo dục vì lo ngại rằng tôi sẽ không có đủ thời gian hoàn tất các lớp đòi hỏi để tốt nghiệp. Tôi thì không muốn mất thêm thời gian nên chọn con đường học gấp đôi. Bốn cấp tiếng Anh và bốn cấp toán, học trong hai năm, trung bình nửa năm phải xong một cấp. Bên cạnh đó là các lớp bắt buộc của cấp lớp 11 và 12 như chính trị, kinh tế, lịch sử mà với tôi lúc đó là rất khó vì không có lớp dành riêng cho học sinh kém tiếng Anh như tôi.
Nói riêng về bối cảnh trường trung học tại quận Cam thập niên 1990. Trước năm 1990, học sinh gốc Việt có nhưng tương đối hòa trộn với các sắc dân khác. Chương trình H.O. làm cho các trường học bỗng nhiên có số học sinh gốc Việt tăng vọt, tuần nào cũng có ít là năm bảy học sinh mới. Học sinh gốc Việt cũng từ đó phân ra hai nhóm: mới qua và qua lâu. Dường như có một rào cản vô hình giữa hai nhóm; họ tụ họp ở những góc khác nhau trong trường, với những sinh hoạt khác nhau và rất ít khi “gặp” nhau. Chúng tôi, những đứa học trò mới qua, mang theo cả cái thói quen “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.” Chúng tôi luôn ồn ào, không bao giờ làm điều gì riêng rẽ, và giờ chơi thì nhất định là phải rộn tiếng cười. Những trò chơi quen thuộc trong sân trường Việt Nam như keo, u, banh đũa, nhảy dây, v.v... mà chúng tôi bày ra ở xứ Mỹ xem ra khá lạ mắt đối với học sinh các sắc dân khác và cả học sinh gốc Việt sang Mỹ từ nhỏ.
Cái sự ồn ào, bè nhóm của “dân mới qua” chắc chắn đã gây khó chịu không ít cho “dân qua lâu” nên họ lại càng giữ khoảng cách hơn. Tôi thì vì học gấp nên sớm phải tách rời nhóm “mới qua” để lấy những lớp bình thường. Nhờ vậy mà cái khoảng cách giữa tôi và những học sinh gốc Việt qua Mỹ sớm hơn dần dà cũng mất đi khi định kiến về “dân mới qua” kém cỏi hay “dân qua lâu” kênh kiệu đã không còn. Tôi bắt đầu hiểu người Mỹ thích sự riêng tư, đề cao tính tự lập, và ít ồn ào - những bài học khác biệt văn hóa đầu tiên tại xứ Hiệp Chủng Quốc.
Tôi đủ điều kiện để được tốt nghiệp trung học nhưng không thể vào đại học chính quy (university) . Dù sao thì với vốn tiếng Anh của tôi lúc đó cũng không mơ có thể “trèo” cao hơn. Tại môi trường đại học cộng đồng, tôi đã gặp rất nhiều những sinh viên gốc Việt lớn tuổi vừa đến Mỹ qua chương trình H.O. Thoạt nhiên, họ mang dáng vẻ lọng cọng của những người đã lâu không đụng đến sách vở, ít nhiều làm cho các giáo viên e ngại. Nhưng chỉ vài tuần sau, khi có kết quả của bài kiểm đầu tiên, họ đã gây bất ngờ; những người đứng đầu lớp thông thường là những sinh viên xem ra có vẻ “out of place” ấy. Với tôi thì điều đó hiển nhiên thôi, vì họ đang “học trả thù” cho những năm bị ức chế dưới chế độ cai trị mới tại Việt Nam sau năm 1975.
Nhớ lại thời tôi lên năm, không biết từ khi nào tôi đã nằm lòng câu trả lời “bố con đi tù” khi có ai hỏi tôi “ba con đâu?” Rồi cũng không biết từ khi nào tôi có ý thức “bất hợp tác,” tôi học thì học nhưng hễ cho tôi danh hiệu “cháu ngoan bác...” là tôi lắc đầu nguầy nguậy, cân nhắc cho tôi gia nhập đội được quàng khăn đỏ là tôi bảo không. Mẹ tôi bị nhà trường khiển trách là tiêm nhiễm tư tưởng chống đối vào đầu tôi thì mẹ tôi cười, bảo nó sinh ra mới được sáu tháng bố đã vào tù không biết ngày về thì chống đối thế là còn mừng. Bất hợp tác nên lý lịch gia đình tôi đen vẫn hoàn đen. Hai người chị lớn của tôi vì thế cũng giống như bao người đồng trang lứa và đồng gia cảnh, không có cơ hội vào đại học cho dù với điểm thi tuyển cao. Người anh thứ ba của tôi vượt biên để tránh bị bắt đi “nghĩa vụ quân sự,” bơ vơ một mình nơi xứ lạ khi chưa qua tuổi “teens.” Người anh kế và tôi ở Việt Nam chỉ học để lấy kiến thức, theo kiểu cầm chừng, chứ chẳng có mộng ước bước vào ngưỡng cửa đại học. Vào thời đó nếu ai hỏi tôi lớn lên mơ làm gì thì tôi sẽ ngớ ra, không có câu trả lời. Hay có thể tôi sẽ nói, lớn lên tôi mơ được đi Mỹ.
Thế nên, chương trình H.O. đã là cứu cánh của rất nhiều người, là kết thúc tốt đẹp của những giấc mơ đứt đoạn vì vận nước. Những người như chị tôi, anh tôi đến Mỹ khi đã trưởng thành, trở lại học đường không khỏi chạm vào những khác biệt về ý thức hệ lẫn văn hóa, chưa kể đến rào cản ngôn ngữ và tuổi tác. Con đường dẫn đến thành công của họ chông gai hơn tôi nhiều. Vì thế mà tôi rất ngưỡng mộ họ, những người Việt thế hệ 1.5, lỡ dở thời thanh xuân vì chiến tranh giờ có cơ hội sống lại cuộc đời mới tại xứ người, dốc hết nghị lực để vươn lên từ những mất mát để thành đạt.
Nhưng thành đạt cho riêng mình không phải là mục tiêu của tất cả mọi người trên xứ Mỹ. Với bố mẹ tôi, đến Mỹ là mong cho con cháu có một tương lai rực rỡ và chấp nhận những cảnh “đổi đời” chẳng đặng đừng, tréo ngoe. Hãy thử đặt bạn vào vị trí của “dân H.O.” xem. Bước chân đến một xứ lạ khi tuổi chí ít đã trên dưới 50, trách nhiệm gánh vác gia đình đè nặng trên vai, mang tinh thần của những chiến sĩ bị buộc buông súng trong thân thể đã từng bị đầy ải nơi lao tù, với khả năng chuyên môn được đào tạo để đánh trận, thì hỏi rằng bạn sẽ bắt đầu cuộc sống mới từ điểm nào? Bạn sẽ làm gì để nuôi sống gia đình? Và bạn có còn sức lực không? Ngày xưa bạn thét ra lửa, giờ bạn là “tài xế” chở vợ đi làm. Trước kia bạn là chỉ huy, giờ bạn làm dưới quyền thuộc cấp của mình. Người bạn học thời xưa giờ là cán sự xã hội của bạn. Người đồng minh đã từng chiến đấu cạnh bạn giờ vẻ như chẳng còn nhớ bạn là ai.
Dù trong hoàn cảnh nào, tôi biết, nhiều vị H.O. đã chẳng màng khó khăn, không ngại công khó, bất kể nhọc nhằn để thích ứng với cuộc sống mới, khởi nghiệp từ đầu hay chấp nhận những công việc tầm thường, chỉ là để vun đắp cho thế hệ mai sau. Bố tôi, một trung tá Thủy Quân Lục Chiến, cũng đã từng có lúc còng lưng ngồi cắt những miếng vải may túi đựng mỹ phẩm, làm công việc đưa đón trẻ em, và sau này là tận dụng khả năng nhắm tọa độ của ngành pháo binh vào công việc giao hàng cho những tiệm hoa trong vùng. Ông làm người bạn đời âm thầm bên mẹ tôi, trụ cột tài chánh chính của gia đình, vì ông hiểu, cuộc đổi đời nào cũng có luật chơi của nó. Chấp nhận và sinh tồn qua những biến chuyển trong cuộc sống, với tôi, là một nghị lực phi thường.
Hai mươi năm trên quê người, có lẽ mỗi người trong các gia đình H.O. đã phần nào thực hiện được “giấc mơ Mỹ quốc” của mình. Cuộc sống mới bao giờ cũng có những bước đầu khó khăn và thử thách, nhưng vẫn còn là điều may mắn hơn một cuộc sống không biết tương lai sẽ ra sao ngay trên chính quê hương mình.....
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen