Vũ Văn Thượng
Tôi có một tánh xấu, một khuyết điểm rất lớn trong nhiều khuyết điểm của cá nhân tôi là : cái gì đã không muốn nghe, không muốn nhìn, không muốn ghi nhận ………. thì cho dù chuyện đó có sờ sờ xẩy ra trước mắt tôi, tiếng nói có oang oang bên tai tôi, v.v… thì chuyện đó, những âm thanh đó không bao giờ lọt được vào mắt, vào tai tôi được cả. Sau năm 75, khi còn kẹt ở trong nước, tôi còn luyện nó tới mức cao hơn, cho đến nỗi sau đó tôi bị “tẩu hỏa nhập ma” hồi nào mà tôi không hay, vì bây giờ tôi chẳng chú tâm vào chuyện gì được nữa. Trở lại chuyện không muốn nghe, không muốn thấy nếu không thích, tuy là khuyết điểm, nhưng nghĩ lại cũng nhờ đó mà tôi đã thoát chết đó quý anh chị. Xin quý anh chị ngồi đọc câu chuyện sau đây :
Khi đậu xong Tú Tài toàn phần, những anh chị theo học tại Viện Đại Học Dalat vì lý do gì thì tôi không rõ, chứ riêng tôi phải rời xa Sài Gòn nóng bức để lên cao nguyên giá lạnh này, ghi tên theo học tại Trường Chánh Trị Kinh Doanh chỉ vì lý do chánh là “tị nạn mắc cở” mà thôi.
Số là tôi rớt liên tiếp hai năm liền kỳ thi Tú Tài toàn phần, mãi đến lần thi thứ ba mới lấy được mảnh bằng Tú tài II. Nhìn mấy đứa bạn bè thân, chúng đều học rất giỏi, đứa nào đứa nấy học năm thứ hai của các đại học như: Khoa Học, Y hay Dược Khoa. Chả lẽ mình chui vào đại học Saigon để học năm thứ nhất, để nhìn thấy những người bạn mình học năm thứ ba hay sao? Mà cũng chưa chắc được đậu vào để học tại những phân khoa mà bạn tôi đang học nữa. Thôi đành leo lên cao nguyên giá lạnh cho không ai nhìn thấy. Tiện và lợi đôi đường, nhất là tôi được nghe các bạn bè kể ngành quản trị có nhiều cái hay: một xí nghiệp sống mạnh, hay chết dở, phần lớn do tài hay lỗi quản trị của những người lãnh đạo . . . . Hơn nữa ngành học này không giống như những thằng bạn của tôi đang theo. Nói theo tiếng thời thượng bây giờ ở Việt Nam là “không sợ đụng hàng” !
Lúc xin vào học, Cha Ngô Duy Linh, Giám Đốc Đại Học Xá, xếp cho tôi ở Lầu 1. Lầu này được chia làm hai cánh A và B. Tôi ở cánh phía trong cùng, mà bây giờ tôi cũng không nhớ gọi đó là cánh A hay B. Trong dãy chúng tôi ở, cha Linh chia căn nhà làm hai, giữa là lối đi, hai bên được ngăn thành bốn phòng ngủ bằng những tấm carton dầy. Trừ hai phòng đầu tiên nơi cửa ra vào là phòng lớn, chứa được ba sinh viên, những phòng khác chỉ có hai sinh viên ngụ.
Nhưng lúc vào trọ, tôi được phân cho ở trong căn phòng mà nguyên thủy nó nhỏ tí nị, với bề ngang chỉ độ hai thước, và chiều dài hơn ba thước. Từ cửa bước vào là gặp ngay phòng này, bên trong có một giường, một tủ áo quần và một bàn ghế. Nhìn những tờ giấy còn sót lại trong hộc tủ, tôi được biết anh sinh viên trước tôi ngụ trong phòng này tên Nguyễn Hữu Mạng, học ở Sư Phạm. Phòng tối tăm quá chừng chừng vì chẳng có cửa sổ. Thế là vài tuần sau, các anh bạn tôi bàn nhau phá tấm vách thông với phòng bên cạnh đã có hai người cư ngụ để thành căn phòng có ba giường giống như căn đối diện. Chúng tôi phá đại mà chẳng xin phép, trình báo cha Giám Đốc Linh gì cả.
Tháng đầu tiên xa nhà phải nói là buồn biết mấy. Vì mới nhập học, chương trình học chưa có gì nhiều, nên tối tối buồn quá chúng tôi chẳng biết làm gì. Một trong những môn giải trí lành mạnh là lội bộ ra phố để xem chớp bóng ở ba rạp Hòa Bình, Ngọc Lan, và Ngọc Hiệp. Nhưng mỗi tuần, các rạp hát mới đổi phim một lần, nên khi coi xong ba phim là không còn gì để coi. Thôi thì đành đi vòng vòng quanh khu Hoà Bình. Nhưng đi năm phút, đã trở về chốn cũ, để rồi chỉ ngắm chính mình đi qua, chính bạn bè mình đi lại. Dalat ban đêm phố xá vắng tanh . . . . Đành lại chui vào quán cà phê Tùng chật hẹp, toàn hơi người và mùi thuốc lá; hay ráng thả bộ thêm tí nữa, đi dọc theo bờ Hồ Xuân Hương để vào quán Thủy Tạ nhâm nhi ly trà Lipton nóng; nếu không thì gọi ly cà phê “phin” để nhìn từng giọt cà phê đen rơi từng giọt xuống ly. Hay chơi bạo hơn, là dù trời lạnh, nhưng chúng tôi không thèm ngồi trong phòng kính khất gió, mà ra bên ngoài, chọn những bàn ngoài trời để hưởng gió trên mặt hồ đang thổi từng cơn lạnh buốt nhưng vẫn gọi chai coca mà nhà hàng mang thêm ngoài ly đá lạnh còn có đĩa nhỏ đựng muối rang với lát chanh xanh. Coca Cola bỏ muối và chanh là mốt thời đó ở Dalat.
Còn nếu lười đi bộ ra phố, thì các anh bạn tôi ngồi tụm ba túm năm tán dóc hay tụ tập đánh bài trong phòng. Những buổi cuối tuần thì vui hơn. Sáng sớm mò ra phố, trước tiên ghé tiệm phở Bằng, phở Tín, hay xuống bến xe Dalat ngay dốc cầu ông Đạo ăn phở ruồi Ngọc Lan! những con ruồi xanh to gần bằng ngón tay út, chúng bay loạn xạ khi bị ông chủ hàng phở người “bắc Kỳ” xua tay đuổi, nhưng rồi sau đó, vẫn xà xuống đáp ngay vào mấy miếng thịt treo lủng lẳng trước mặt ông ta. Bây giờ ngồi nhớ lại, ôi sao mà sợ quá! Tôi nhớ đến một lần đi với anh Sơn Quắn, gốc người Nha Trang, anh có hỗn danh như thế vì mặt anh trông giống Tây và nhất là mái tóc xoăn quắn lại, anh cất cao giọng để gọi tô phở thật buồn cười.
-“Bác ơi ! Cho tôi tô phở xe lửa với: tái chín sách nạm gầu gân gối tuỷ, thêm hành chần và nước béo thật nhiều vào!”
Anh Sơn khoe với tôi :
- Tao kêu như vậy thì không thiếu món chi hết. Dĩ nhiên tôi cãi ngay:
- Chỉ bàn riêng về khoản thịt, thì mày kêu cũng thiếu mấy thứ như vú bò. Ôi ! Vú bò ăn thật tuyệt. Rồi tới vè và cả món độc đáo là giò. Ở Saigon chỉ vài tiệm phở mới làm món giò đặc biệt này với phẩm chất thật ngon, chứ không phải tiệm nào cũng có. Chưa kể tới khoản ngầu bín nữa! Nghe tới ngầu bín là anh Sơn nghếc mủi cười, làm nhúch nhích cả hàm râu dê. Tôi nói tiếp: Chưa kể ăn phở mà thiếu ngò gai, rau húng, tiêu cay, ớt tươi, chanh xanh. Thiếu những món này thì hết là tô phở.
Tôi ăn phở thì thường gọi thêm chén nước tiết, trong có quả lòng đỏ trứng gà. Chỉ vài năm nay, sống ở xứ người, ăn uống không kiêng cữ, bây giờ đi khám thì thấy bị đường với cả mỡ trong máu. Tôi đành gĩa từ nó . . . . với lòng tiếc thương vô cùng.
Ăn xong thì la cà trong chợ, rồi lại kéo nhau ngồi ở mấy quán nước trước rạp Ngọc Lan, hay đi xuống đường Minh Mạng, Phan Đình Phùng giải trí . . . kém lành mạnh như thục bi da. Điều không thể thiếu là trước khi trở về Đại Học Xá, chúng tôi không quên ghé những nhà tắm nước nóng để tẩy trần thân thể.
Nhưng ai đi đâu thì đi, ai làm gì thì làm, chỉ có anh Lâm Hoài Trí, khóa 3, người gốc Mỹ Tho, thì thường siêng năng suốt ngày cắm cúi ngồi học. Chúng tôi có năn nỉ lắm thì anh mới chịu đi ra phố chơi với chúng tôi một vài lần. Nhìn anh siêng học quá thì tôi . . . . đâm ghen, nên bèn nghĩ cách chọc phá anh cho bỏ ghét. Với không khí âm u lạnh lẽo, đêm đêm nghe tiếng gió rít, nhìn ra ngoài chỉ thấy sương mờ với những bóng cây thông uốn mình nghiêng ngả theo cơn gió . . . thì trêu chọc gì sướng bằng nhát ma anh ta. Lúc đó tôi mới lên học, còn chân ướt chân ráo, là ma mới nên chưa dám chọc mấy anh khóa 2, khóa 3, nhất là chưa dám rớ tới cha Linh. Mãi đến khi về Tết của năm học đầu tiên, tôi mới cùng anh Nguyễn Xuân Hà đi phá cha Linh.
Anh Trí thì nhỏ con, vì thế mới có hỗn danh Trí Đẹt, anh trông bề ngoài có vẻ hiền lành. Chọn anh làm mục tiêu thì tôi nghĩ là yên thân. Nhưng tôi đã lầm đấy các bạn. Cứ nhìn ngón tay trỏ ở bàn tay mặt của tôi còn vết dao cắt sâu thì biết ngay tánh cọc của anh. Người hiền thì thường dễ nổi cọc lắm. Chuyện này có dịp sẽ kể hầu quý anh chị. Bây giờ nói trở lại chuyện. Thế là tôi hoạch định kế hoạch phá anh Trí.
Dãy Lầu 1 dài khoảng 50 thước. Nằm lưng chừng con đồi, song song và cách giảng đường Thụ Nhân khoảng một trăm thước. Từ dãy Lầu 2 nếu đi thêm khoảng mười thước để quẹo trái lên con đường dốc để vào Giảng Đường Thụ Nhân, thì chúng ta sẽ đụng Lầu 1. Lầu 1 nằm thẳng góc với Lầu 2. Hai đầu nhà của Lầu 1, mỗi đầu có một căn phòng duy nhất. Niên khóa 1966 - 1967, căn phòng đầu dãy phía gần Lầu 2 có anh Nguyễn Minh Tuấn, người Bắc nhỏ con, có giọng nói nhẹ, ngọt và nhất là có cử chỉ ẻo lả như con gái và anh Phan Huy Luận, cả hai cùng học khóa 1 Trường Chánh Trị Kinh Doanh. Căn phòng đầu bên kia thật khuất, cũng có hai anh là anh Nguyễn Văn Khiêm, học Khoá 2, hình như gốc Trà Vinh, người nhỏ con, ưa cười - không phải là Huỳnh Nhân Khiêm, mà sau này làm ở Ngân Hàng Quân Đội - và anh Nguyễn Văn Tôn khóa 1, người Nam, sau làm ở Bộ Lao Động. Đã mất vì bệnh sau năm 75.
Giữa Lầu 1 có nhà vệ sinh, trong đó hình như có bốn hay năm nhà cầu được ngăn cách bằng những bức tường xi măng cao khoảng một thước rưỡi. Từ cửa bước vào phòng vệ sinh, phía tay mặt, nơi góc, ngó lên phiá trên trần, tôi thấy có một ô vuông nhỏ mỗi cạnh khoảng sáu tấc dùng để leo lên trần nhà. Trần nhà là những tấm ván nhỏ khá dài, có lẽ hơn hai thước, chiều ngang rộng độ bàn tay. Leo lên đứng trên bức tường ngăn nhà cầu nơi góc phòng thì có thể với tay đụng trần, nên từ đó có thể dễ dàng chui lên trên trần qua cái ô vuông.
Thế là một ngày, sau buổi cơm chiều kém về phẩm chất nhưng thật vui vẻ, thật ồn ào ở phòng ăn Đại Học Xá, tôi thực hiện việc trêu phá anh Trí. Đêm đã khuya, thấy anh Trí ngồi vào bàn học bài, tôi lẳng lặng mang chai thuốc nhỏ mắt nhưng trước đó đã lấy hết thuốc ra và được đổ đầy mực đỏ. Cầm thêm cây đèn pin nhỏ, tôi vào nhà cầu và tìm cách leo lên trần. Tuy thấp người, tôi vẫn leo được khá dễ dàng khi phóng người bám vào ô vuông. Nhưng lên tới trên, thì quang cảnh tối om, tôi mở mắt thật lớn nhưng cũng không nhìn rõ gì cả. Chỉ có những ánh sáng thật yếu ớt lọt qua những khe hở của tấn ván trần. Có cây đèn pin, nhưng lúc đó tôi không dám mở đèn lên vì sợ người phía dưới biết được.
Điều quan tâm của tôi lúc này là làm sao bước đi trên trần nhà mà không gây ra tiếng động, vì sợ người bên dưới biết có tôi trên này. Nếu biết có người trên đây thì làm sao phá người ta sợ được; và tôi phải cố gắng làm sao đặt hai bàn chân đúng trên những cây xà ngang, đà dọc trên trần nhà. Lọt chân xuống các thanh ván nhỏ thì có thể xụp trần. Nhẹ thì cũng trầy chân, trặc cẳng!
Đứng một hồi cho quen với bóng tối, tôi lần mò tiến tới từng bước một. Bỗng nhiên có một người vọt qua trước mặt tôi. Tôi chỉ thoáng đưa mắt nhìn xem ai rồi lại chăm chú bước tới chầm chậm. Bóng đen đó sao di chuyển giỏi quá ! Nhìn thoáng thấy dáng người hơi mập mạp, lùn lùn, tóc ngắn thì tôi đoán là anh Phạm Văn Đưa cùng lớp và cùng ở chung trong phòng với tôi. Anh em trong trường thưởng anh bằng hỗn danh Tư Dzũa. Trong phòng, giường ngủ anh sát với giường tôi. Thấy anh ta nhẩy tới nhẩy lui như con vượn trong khi tôi đang thật chậm chạp lần mò từng bước một thì tôi phục anh ta quá, tự nghĩ trong đầu : - Thằng Dzũa này nó sinh sống ở Thủ Đức chứ có ở trên rừng đâu, vậy mà sao nó leo trèo hay quá ! Hay là nó thường leo cây hái trái nên mới . . . . chuyền, nhẩy giỏi như Tarzan.
Sợ gây tiếng động, nên khi thấy anh ta quay nhìn tôi, tôi vội dơ ngón tay trỏ để trước miệng, và xuỵt nhẹ một tiếng ra dấu hiệu phải yên lặng. Anh ta cũng bắt chước đưa ngón tay lên miệng và xuỵt nhẹ một tiếng với tôi và gục gặc cái đầu tỏ vẻ cực kỳ thích thú lắm. Tôi không chú ý nhìn anh ta mà đang cố gắng hết sức để nhướng đôi mắt thật to nhìn trên trần, hầu bám tay đúng vào những cây đà, và lại phải ngó xuống phía dưới để cố gắng đặt bàn chân trúng trên những cây đà nhỏ. Tuy vậy, tôi vẫn thấy bóng anh Đưa nhẩy qua nhẩy lại trước mặt tôi, và nhất là luôn luôn lắc lư cái đầu tỏ vẻ sung sướng lắm. Lúc thì anh phóng bên này, khi anh đu mình qua bên kia, tay anh bám trên những xà cao tung người như khỉ. Tôi phục anh quá trời.
À ! Quên giới thiệu với anh chị là cái mặt anh Đưa trông lầm lì có vẻ dân anh chị lắm! Nhìn anh chẳng có vẻ gì là thư sinh cả. Anh Tạ Đăng Quang thường trêu chọc anh Đưa : - “Con nít trông thấy mày, thì đêm ngủ nó lên kinh ! Và chết luôn chứ không cứu được. ”Cái bản mặt tuy dữ tợn, râu ria rậm rạp, tiếng nói sang sảng.” Trong phòng, mỗi khi nghe kể lại những chuyện cãi lộn nhau ngoài đường, nghe nói lại những cuộc tranh luận hăng say . . . . là anh Đưa thường la to : “Lúc đó sao không có ai nhào dzô giết nó . . . . . sao mày có đó mà không ‘quýnh chít mẹ’ nó đi!” Thấy bộ điệu, lời lẽ của Đưa, chúng tôi lúc đầu ai cũng tưởng anh hung dữ, nóng tánh. Nhưng chơi với anh lâu, chúng tôi sau đó thấy anh rất….. thỏ đế.
Trở lại chuyện, một hai lần, trong bóng đêm, tôi thấy anh đứng chắn ngang trước mặt tôi, tôi bèn lấy tay xua xua ra phía trước bảo anh tránh xa và không quên đưa ngón tay lên miệng xuỵt nhỏ ý bảo anh hãy yên lặng. Anh bèn lúc lắc cái đầu, rồi cúi người xát xuống khoảng đầu gối tôi và ngửng mặt lên nhìn tôi. Nhưng tôi đâu có thèm nhìn anh, hơi đâu để ý tới anh, vì bản mặt đen thui, hai con mắt lớn với lông mày chổi xể và hàm râu ria rậm rạp tôi có lạ lùng gì đâu!
Lúc này tôi chỉ sợ trợt chân và sợ gây tiếng động nên tôi chỉ lo nhìn phía trên trần để bám tay cho đúng vào các cây cột. Còn bàn chân thì mò mẫm từng bước. Tôi thấy hơi lạ vì trời khá lạnh mà anh ở trần trùng trục, chỉ mặc cái quần đùi. Đầu anh húi cua như lính.
Lò dò buớc đi trong đêm tối cũng phải hơn năm, sáu phút để mò mẫm trên đoạn đường chỉ khoảng năm thước mới tới vị trí phòng anh Trí. Ghé mắt qua khe hở của những tấm ván, tôi thấy Trí vẫn cắm cúi ngồi học. May quá, ngay phía trên trần là cây xà ngang. Như vậy tôi khỏi phải bước xuống trần nhà. Nếu gặp trường hợp không có cây xà ngang phía trên anh Trí, có lẽ tôi sẽ bỏ cuộc ngay. Tôi lấy chai nhỏ mắt trong có đựng mực đỏ và vặn nắp đậy mà phía dưới có ống bằng thủy tinh nhỏ, phía trên nắp đậy là miếng cao su, bóp vào đó để hút thuốc nhỏ mắt. Lúc này chứa đầy mực đỏ, tôi đưa cây nhỏ mắt vào khe hở và bóp mạnh phần cao su mền đằng đầu. Nhưng có lẽ quá run tay, hoặc vì không thấy đường, nên mực đỏ chỉ tràn trên cây chứ không lọt qua khe hở để rớt xuống đầu anh Trí. Tôi nhét ống hút vào chai thuốc, bóp miếng cao su trên đầu để hút mực đỏ và nhỏ xuống nữa. Để chắc ăn, tôi làm hai ba lần và sau đó đổ luôn chai thuốc rồi vội vã quay trở lui ngay khi nghe tiếng la thất thanh của anh Trí. Bóng đen của anh Đưa cũng nhanh chóng nhẩy theo tôi. Lần trở về hướng cầu tiêu, tôi bước đi nhanh hơn hồi nãy rất nhiều. Anh Đưa thì vẫn phóng qua nhẩy lại như vượn.
Tôi tụt xuống thật lẹ, đi rửa tay rửa mặt cho hết bụi bậm và mạng nhện dính quanh người rồi lẻn nhanh vào phòng, leo lên giường nằm đắp mền giả bộ ngủ mặc kệ tiếng anh Trí đang léo nhéo chửi đổng bên phòng kế cạnh sau khi hoàn hồn lại vía. Lúc đó tôi lính quýnh quá nên chẳng để ý tới anh Đưa.
Vài ngày sau, vào một đêm tối tôi rủ anh Đưa làm thêm một màn chọc phá nữa. Nhưng anh vội vàng thoái thác và nói nhiều câu làm tôi chưng hửng. Anh tuy là người Nam, sinh đẻ tại Thủ Đức, nhưng khi nói chuyện lại thích sử dụng vài tiếng Bắc :
- Tớ chả dại đâu bác ! Tớ chẳng dám leo cao vì bị máu xâm và nhất là sợ bóng tối lắm.
Tôi lấy làm lạ quá ! Cố rủ anh nữa thì anh khuyên tôi :
- Đừng nghịch dại ! Nhà này cũ lắm rồi ! Cây mục hết trơn rồi. Leo lên đó, té chết cha . . . đó nhe bác. Các bạn cũng nên biết Viện Đại Học Dalat trước kia là trường Thiếu Sinh Quân xây cất từ thời Pháp thuộc.
Tôi thấy lạ thật. Cả dẫy phòng chúng tôi, chả có ai dáng người giống anh Đưa hết. Anh Lê Bình, mà chúng tôi thường gọi là Lê Bò, thì tuy mập, da đen giống anh Đưa, nhưng Bình cao hơn Đưa và nhất là dáng đi thì anh Bình không có cái tật lúc lắc cái đầu giống rắn hổ mang như anh Đưa. Như vậy, nếu không phải anh Đưa thì ai leo lên trần nhà phá với tôi vào tối hôm đó.
Tôi hết hồn, leo lên giường nằm suy nghĩ và cố nhớ lại từng chi tiết thì nhận thấy cái đầu húi cua thì không phải của anh Đưa rồi. Đưa tuy cắt tóc ngắn, nhưng vẫn còn tóc để chải được, và suốt thời gian học trên Dalat, tôi cũng chả bao giờ thấy anh mặc quần short cả. Đúng rồi ! Anh Đưa sợ lạnh lắm. Trong Đại Học Xá, anh thường mặc bộ pyjama xọc và đầu còn đội thêm cái nón nỉ và thường còn quấn thêm khăn quàng cổ. Ngồi suy nghĩ, thấy tôi cả quỷnh quá! Ai mà tài giỏi đu bay trong đêm tối như vậy.
Sau đó, tôi đi dò hỏi thêm vài người bạn để chắc chắn không có ai leo với tôi lên trần nhà trong kỳ phá anh Trí. Thế là tôi bắt đầu . . . . lạnh cẳng. Rồi từ đó về sau, tôi tránh tối đa để khỏi sử dụng nhà cầu về ban đêm. Cùng lắm chỉ đi thật nhanh, và mỗi lần ra nhà vệ sinh ban đêm, tôi luôn thủ thêm cây đèn pin và nhất là không bao giờ dám sử dụng cầu tiêu ở góc ngay dưới lỗ vuông trên trần. Tôi cũng chẳng dám nói cho ai biết về chuyện này cả.
Bây giờ ngồi nghĩ lại : Hôm đó nếu trên trần có ánh sáng nhiều hơn, khi bóng đen cúi sát xuống và ngửng đầu nhìn tôi, chắc chắn tôi đã nhìn được người đó là ai rồi. Hay người đó lè lưỡi ra liếm vào mặt tôi, có lẽ tôi đã chết trên trần vì sợ hãi, xác có thối thì mới mong có người biết mà lôi xuống.
Trong Đặc San Thụ Nhân Âu Châu, ấn hành năm 2001, nơi trang 96, bài thứ 15 của anh Dương Tấn Hải, Khóa 1, hiện đang ở Marseille, Pháp quốc, có kể chuyện về những “Con Ma Đã Đi Qua Đời Tôi”. Theo anh Hải viết, cha Ngô Duy Linh đã cho biết : - “Nó đâu phải là con ma, nó là con quỷ đấy !” Và con quỷ này thật hung dữ nếu ta cố tình gây sự với nó, vì trong ba người thấy nó trong đêm định mệnh ở Lầu 2 Đại Học xá. Người thì phóng dao, người thì nhào ra đòi đánh nó, kết quả một người là anh Tôn Thất Tạo đã chết trong trận Mậu Thân tại Huế; một người thì vô tù ra nằm nghỉ mát ngoài Côn Đảo, sau đó bỏ học luôn là anh Hồ Quang Nhật; còn anh Hải thấy nó, chỉ sợ quá la hét thì may nắm hơn vì chỉ bị bệnh vài tháng.
Theo anh Nguyễn Khắc Kình, Khóa 5, đang sống tại Úc Đại Lợi, viết trong bài “Ma Đại Học Xá” đăng ở Đặc San Bên Này Nỗi Nhớ của Thụ Nhân Dallas năm 2004 cũng có nói về con quỷ này. Nó làm anh Kình đi lạc đường, té trặc chân, và lần thứ hai, nó hiện ra rõ ràng, và nhìn anh đăm đăm trong phòng.
Tôi thì thấy nó quả thật dễ thương vô cùng. Phải vậy không các anh chị. Nếu nó không dễ thương thì giờ đây tôi đâu có dịp ngồi kể chuyện này.
Vũ Văn Thượng
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen