Phiếm Luận
Luận
từ Chữ CHẾT
Thực chất bài viết
này là sự sưu tầm và góp nhặt hàng trăm chữ và cụm chữ có đồng nghĩa với chữ CHẾT
(phần lớn là những chữ in nghiêng).
Lần đầu viết vào
cưới năm 1971, nhưng sau khi đi HTCT mất hết các bản thảo, và mãi đến năm 1999
tôi mới có dịp ngồi bên computer viết lại, có chỉnh sửa và bổ sung.
Mong
rằng đây chỉ là câu chuyện phiếm… của NHN.
Có thời
gian tôi sống trong xóm lao động, hàng ngày thường phải nghe những tiếng mạt
sát, chửi bới nhau. Hỡi ơi người ta dùng bao nhiêu từ chói tai, nhức óc để nguyền
rủa nhau cho hả cơn nóng giận. Do đó sau khi lập gia đình và có đứa con đầu
lòng tôi phải chuyển sang khu khác để tránh xa những lời tục tằn chướng tai… Và
những từ ấy, tôi lưu tâm đến chữ CHẾT: Đồ
chết rấp, chết giẫm, chết băm chết vằm, chết xe chết pháo, chết đường chết xá,
chết sông chết chợ, chết bờ chết bụi, chết dắm chết dúi, chết ôn chết dịch, chết
cha chết mẹ, chết thày chết tớ, chết họ chết hàng, chết hang chết hốc, chết bom
chết đạn, chết con chết cháu, chết tử chết tiệt… chết đi cho rồi!...
Thôi
thì có đủ thứ từ, đồng bào Anam ta cứ việc ghép với chữ chết để chửi rủa xả
láng, thả dàn cho thỏa cái lòng căm tức cho hả cái cái dạ hận thù! Nếu nhẹ
nhàng hơn thì có những từ: chết toi, chết
dịch… có khi chữ được dùng đảo ngược lại mà dùng để rủa nhau : đồ chó chết, đồ gà chết…
Để
tìm hiểu về từ CHẾT, trong tự điển đã giải nghĩa đơn giản sau: Chết
là hết sống… Còn văn vẻ hơn: Chết là mất khả năng sống, không còn biểu hiện
của sự sống.
(Theo Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia: Chết
thông thường được xem là sự chấm dứt các hoạt động của một sinh
vật
hay ngừng vĩnh viễn mọi hoạt động sống
(không thể phục hồi) của một cơ thể.
Thực
ra có rất nhiều chữ nói đến sự việc chết
và hình thức chết. Nào là những từ chưa
hẳn là chết như: chết dở, chết giả, chết giấc, chết dần chết
mòn, chết hụt, thoát chết. v.v…
Những
chữ chỉ việc Chết hẳn: chết đâm chết
chém, chết chìm, chết đuối, chết non, chết già, chết thọ chết yểu..v.v… …
Những
chữ chỉ việc Chết nhanh: chết tươi, chết
tức tưởi, chết tức khắc, chết tức thời, chết không kịp ngáp. chết bất đắc kỳ tử
.v.v. …
Lại
có những chữ vừa có nghĩa chết và có thêm nghĩa khác: chết tiệt, chết đói, chết khát, chết rét, chết cay chết đắng, chết đắm
chết đuối, chết mê chết mệt...v.v….Và ta cũng có thể dùng như tán thán tự: Chết cha!, chết mẹ!, chết xác, chết tiệt, chết
thôi (td: Mệt chết thôi! Làm chết cha!); Ấy chết, chết chưa?
Nếu
dùng thêm chữ chết vì… chết bởi… chết bằng… thì quá nhiều, kể sao cho xiết!
Trong
dân gian có câu tục ngữ “Cây ngay đâu sợ chết đứng”. Với chữ
chết
đứng và chết như trời trồng có lẽ cụ Nguyễn Du đã mượn từ câu
tục ngữ này để diễn tả cái chết thật độc đáo của Từ Hải trong truyện Kiều.
Với
chữ Chết ta cũng có thể nối gót cụ
Nguyễn Văn Vĩnh mà than: Gì cũng Chết! Ta chỉ cần ghép thêm một chữ nào đó với chữ chết là có ý nghĩa ngay: chết
cười, chết khóc, chết nhục chết nhằn, chết khổ chết sở, chết sung chết sướng …và
đảo lại thì có buồn chết, cực chết đi được,
chán chết, khổ chết, sướng chết hoặc
vui đến chết, buốn đến chết, nhất là
sướng đến chết…
Mặc dầu sướng chết đi được, mà nhiều người vẫn
cho rằng “đời là bể khổ, bể trầm luân”…
và ai cũng kêu ca than vãn: Than trời than đất, than đói than rách, than
buồn than chán, than nghèo than khổ, than nợ than nần, than thân trách phận, THAN ngay từ thuở sơ sinh!
Nên
ngày xưa cụ Nguyễn Công Trứ cũng có câu thơ:
“Mới sinh ra đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì!”
Đối với
dân Tây, có cụ La Fontaine cũng diễn đạt trong bài thơ ngụ ngôn La
Mort et le Bu^cheron
“Quel plaisir a-t-il eu depuis
qu’il est au monde!”
Người
Annam ta có rất nhiều chữ hay cụm chữ đồng nghĩa với Chết.
Ngay
trong cuộc sống gia đình mỗi khi có người thân qua đời, con cháu ngoài việc lo ma
chay chôn cất, nhưng khi mồ yên mả đẹp,
con cháu còn phải lo thờ cúng cho chu toàn. Cũng dựa vào sự kiện này mà chúng
ta biết thêm những cụm chữ nói về CHẾT .
Khi
con người qua đời (chết đi), ta thường
nói họ không còn ở trần thế, (dương thế,
dương gian), mà về với ông bà, về với
tổ tiên, nếu có trở về nhà thì cũng chỉ
rửa chân lên bàn thờ, hoặc ngồi trên
bàn thờ mà thôi! Còn đối với những kẻ tứ cố vô thân khi từ bỏ cuộc sống này, thường
phải ra nằm ở bãi tha ma, ngủ với giun với
dế.
Khi
những người thân đã nằm yên dưới suối
vàng, nếu được hỏi, ta cũng có nhiều câu để trả lời: đã quá cố, đã tạ thế, đã khuất bóng, hoặc đã khuất núi. Còn đối với người
dưng nước lã khi đi đời nhà ma coi
như đã nằm ngoài nghĩa địa, chầu ông bà
ông vải đã xuống âm phủ, hoặc đi chầu Diêm Vương.
Nói đến
chữ Nho (Hán tự,) ta phải kể đến chữ tử. Chữ tử này coi như đã được Việt
hóa. Nó có thể ghép với nhiều chữ khác và cũng mang ý nghĩa chết như là tử biệt sinh ly, tử địa, tử sỹ, tử nạn,
tử thương, tử hình, tử tù, tử tội ngược lại là cửa tử, bức tử, tự tử; nhưng mừng nhất là được cải tử hoàn sinh.
Trong
cuộc sống hàng ngày, những người có số bất
đắc kỳ tử, mà bị tử nạn trong khi di chuyển, thân xác thường
hay bị phơi thây, mất xác, bỏ xác giữa
đường giữa chợ. Trong cộng đồng xã hội có những kẻ giết người không gớm tay,
khi bị bắt, bị tù đày, và coi như là tử
tù. Những người tử tù này, khi xử
tội kết án sẽ bị ghép vào loại tử tội
và lãnh án tử hình.
Ngày
nay tử tội sẽ bị đưa ra pháp trường xử bắn, đưa vào phòng hơi ngạt hoặc bước lên
ghế điện.
Còn xưa
kia thị bị xử giảo, xử trảm, lăng trì (lột
da, lóc thịt) hoặc tứ mã phanh thây (dùng
bốn ngựa kéo cho tan xác thành bốn mảnh).
Cũng
ngày xưa các quan cận thần, cung phi bị mắc tội phản loạn hoặc thông gian thường
bị bức tử, bởi gươm đao hay giải lụa trắng (thắt cổ), cùng chén thuốc độc do Vua ban để tự
hủy mạng sống của mình.
Có những
người bị thác oan, chết uổng, thường chết không nhắm mắt vì họ chưa tới số chết. Trong khi đó lại có những người ngu xuẩn, ngây dại tự đi tìm lối thoát cho riêng mình, đã tự tử bằng cách uống thuốc độc; tự vẫn bằng cách thắt cổ, tự sát bằng súng, bằng gươm, đao, dao găm. bằng cách nhảy
vào lửa hay tẩm xăng để tự thiêu; quyên
sinh bằng cách nhảy xuống sông
Saigòn như nàng Kiều gieo mình xuống Tiền Đường hay tìm giấc ngủ ngàn thu bằng cách uống thuốc
giết chuột, thuốc ngủ hoặc maxiton!
Khi
tôi còn nhỏ, mỗi lần giết gà vịt, mẹ tôi thường lẩm nhẩm khấn khứa:
“Gái cắt tai,
giai cắt cổ,
Toa
hóa kiếp này,
Mày
sang kiếp khác !..”
Chữ Kiếp dùng để diễn tả
trọn khoảng thời gian sống của một sinh vật như kiếp người, kiếp trâu, ngựa, chó, mèo…cây cỏ…
Theo
giáo lý nhà Phật chữ nợ ba sinh cũng
để chỉ rõ ba kiếp người: Kiếp trước (tiền
kiếp), kiếp hiện tại và kiếp sau (hậu kiếp). Khi đã trọn kiếp, hóa kiếp, tàn kiếp hay từ bỏ kiếp này cũng chỉ là đổi
kiếp này sang kiếp khác, hoặc chuyển
kiếp mà thôi.
Người
ta tin rằng mỗi kiếp người đều mang một nghiệp số, mệnh số cá biệt, chẳng may từ trần thì coi như tận số, hết số. Thoát được cảnh khổ ải, nợ nần khi mệnh một (mai một) thì coi như đã trả nghiệp, trả nợ đời!. Những ai chết trẻ thì coi như là yểu số, vắn số (vắn đồng nghĩa với ngắn), đoản số hay bạc mệnh.
Thiên đường hay Địa ngục cũng chỉ là các
cõi trong giáo lý nhà Phật: Cao nhất là Cõi Thiên (cõi trời), cõi Phật, cõi tiên, tiếp đến là cõi trần, cõi dương, cõi tục và cuối
cùng là cõi âm.
Ở
dương thế (cõi dương), người nào ăn ở
nhân hậu, chịu khó tu tâm tích đức qua nhiều kiếp thì khi hồn lìa khỏi xác và từ biệt
cõi trần, cõi tục sẽ được siêu thoát,
về trời, về miền Tây Phương cực lạc, về với đức Phật, về cõi Thiên Đàng.
Còn những ai không giữ trọn đạo làm người, thì
khi thác đi không được hóa kiếp mà phải về cõi âm, xuống âm ty, vào địa ngục chịu mọi ngục hình trước khi chuyển sang kiếp khác.
Trở lại
với cuộc sống hàng ngày, cuộc đời dâu bể, hợp hợp, tan tan là lẽ thường. Những
người thân, bạn bè, họ hàng sau hồi ly tán, kẻ còn người mất. gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, Khi thăm hỏi mới hay: “Thằng
này tiêu, thằng kia tịch; đứa này ngoẻo, đứa nọ đi đoong, ngủm
củ tỏi…Có kẻ đi tàu suốt để xuống tuyền đài.”
Bạn
bè cùng binh chủng, trong quân ngũ, lâu ngày hỏi thăm đến nhau thì đã có người qua bên kia thế giới, có kẻ về vùng
5 chiến thuật! (Ghi chú:
Trước năm 1975, cả miền Nam chỉ có 4 vủng chiến thuật).
Gặng
hỏi thêm số bạn tha phương mới hay thằng này đai (die), ở Mỹ, ở Anh
hay ở Úc, đứa nọ mo (mort) ở Pháp, ở Canada.
Tiếng
dai
(die) mới có sau này, còn tiếng mo (mort) có từ thời Pháp thuộc. Và
thời này chúng ta mới biết đến chữ Thần Chết (La Mort).
Mỗi
khi thần chết gõ cửa là lúc ta lâm chung. Khi nhắm mắt, xuôi tay là lúc thần
chết mang đi! Mà theo chân thần chết
thì rất khó được lên thiên đàng.
Cũng
cùng chung quan niệm về thiên đàng hay địa ngục như Phật Giáo, vào những ngày
Chủ Nhật, các Cha Xứ thường khuyên giảng con chiên phải theo lời Chúa dăn dạy,
giữ lòng ngay và tin nơi Chúa, khi lâm
chung sẽ được cứu dỗi. Lúc từ giã cõi
đời sẽ được thánh Pierre tiếp rước đưa
dẫn lên Thiên Đàng, về với Chúa, về chốn
Vĩnh Hằng. Đừng bao giờ nghe theo lời cám dỗ của quỷ Sa Tăng (Quỷ Lucifer)
mà phạm những tội lỗi ở đời. Hậu quả chỉ là bước chân theo tử thần mà sa xuống địa ngục.
Chỉ
có người xưa mới coi “cái chết nhẹ tựa lông hồng”, hết
lòng ví Vua vì nước như Lê Lai xả mình cứu chúa (Vua Lê Lợi); như Nguyễn Tri Phương tử thủ giữ thành; hay tuẫn tiết như Trần Bình Trọng, Phan Thanh Giản,
Hoàng Diệu,
Nhắc
đến truyện ngày xưa, thì trong chiến trận mấy ai là “kỷ nhân hồi?” (Cổ lai
chinh chiến kỷ nhân hồi), hoặc
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Do đó biết bao nhiêu sỹ tướng đã gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người
hoặc nằm trong đất lạnh ở biên cương.
Và
cũng ngày xưa, người xưa lấy da ngựa bọc
thây cho chiến binh bỏ mình nơi
chiến địa, còn ngày nay đã có “Poncho quàng xác” cho quân nhân tử trận, hay hy sinh cho màu cờ sắc áo. Không biết bao nhiêu người nằm xuống vì ăn đạn, tan xác vì đạp phải
mìn, ăn bom, lãnh pháo! Tất cả
các tử sỹ này đều được thăng hoa bằng
những mỹ từ như: Trả ơn vua, đền nợ Nước,
Anh dũng hy sinh cho Tổ Quốc, và trở thành những anh hùng liệt sỹ.
Thảm
thương hơn nữa, có nhiều chiến binh đã phơi
thây trên chiến địa, an nghỉ dưới chiến hào, thân xác vùi sâu lòng đất lạnh đâu được vinh dự nằm trong hòm gỗ cài hoa, hoặc áo quan phủ kín màu cờ để nghe dàn quân
nhạc cử lễ truy điệu; những bài điếu
văn đầy sáo ngữ, hay những tiếng súng chào tiễn biệt âm vang trong hư vô. Có
chăng, họ chỉ được nghe tiếng kèn trompette
trổ khúc nhạc chiêu hổn tử sỹ là
cùng!
Hỡi
ơi! Thời buổi này đất hẹp người đông, tình trạng kinh tế suy thoái, kiếm miếng
ăn khó khăn nên tình thương yêu lạt như nước ốc luộc! Tất cả chỉ còn lại nhu cầu
duy nhất là miếng cơm manh áo mà thôi. Mạng người không còn giá trị gì nữa, con
người có thể bị cho ăn dao, ăn búa, lãnh
gươm, lãnh giáo, người ta cũng có thể thí
mạng cùi, hoặc đổi mạng như chơi!
Cũng vì vài chỉ vàng, hay một dúm Dolla, người ta cũng có thể thủ tiêu đối thủ bằng nhiều cách. Kín
đáo hơn, chúng bắt chước dân Hải Quân, dùng hình thức thủy táng như cho đi mò tôm,
mò cá, hay cho ôm tảng đá bỏ trong bao bố để đi chầu Há Bá.
Mỗi
loại Chết có một ngôn từ.
Chết
sông, chết biển, ao, hồ là Chết đuối, chết
trôi, chết chìm.
Thiếu
không khí mà chết là Chết ngạt (nghẹt thở),
Chết
bởi gươm, đao, sung đạn, v.v… là Tử
thương,
Chết
vì tai nạn … là Tử nạn
Chết
ngoài chiến trường là Tử trận,
Chết
trong cuộc thánh chiến là Tử vì đạo.
Còn tự
hủy mình là Tự tử, tự sát,
Tự tử có nhiều cách
như uống thuốc độc, cắt mạch máu…
Thắt
cổ chết gọi là Tự ải, Tự vẫn,
Dùng
dao, dùng súng, đâm đầu vào xe hơi, xe lửa là Tự sát.
Tự nhảy
xuống nước như sông, biển… gọi là Tự trầm.
Tự tẩm
xăng dầu hay nhảy vào lửa gọi là Tự
thiêu, hỏa thiêu,
Tự hủy
mình vì trung hiếu tiết nghĩa là Tuẫn tiết,
Người
dân dã mà chết thì dùng chữ Từ trần, Tạ
thế, Quá vãng…
Nhà
vua chết thì gọi là Băng hà,
Người
tu hành chết thì gọi là Viên tịch.
Trong
cuộc sống hiên tại, mạng sống con người khó giữ, dễ mất mạng như ngóe (con ếch). Sự sinh tồn và hiện hữu chỉ
có ý nghĩa với những ai có của ăn, của để, của nổi, của chìm, có xe hơi nhà lầu,
vợ đẹp con khôn, chương mục kếch xù ở ngân hàng… mà thôi!
Hơn nữa
xác người chẳng có giá trị gì, không bằng xác súc vật như trâu, bò, gà, vịt …
còn thua cả xác chó nữa! Người ta giết trâu, bò, gà, vịt … để làm thực phẩm và
bầy bán đầy ngoài chợ, trong siêu thị.
Và nếu
thịt người ăn được, thì xác người cũng có giá dù rẻ như bèo… thì chắc chắn cuộc
tàn sát sẽ khủng khiếp và chiến tranh còn tàn khốc hơn nữa!
Vì
xác người không ăn được, nên người ta phải đem chôn dấu… dưới nhiều hình thức mai
táng:
Chôn dưới ba thước đất (tam xích thổ) gọi là Địa Táng.
Thả
xác xuống biển gọi là Thủy Táng,
Đem
vào lò thiêu hoặc bị đưa lên dàn hỏa
gọi là Hỏa Táng.
Trong
hình thức Hỏa táng, người ta thường hốt nắm xương tàn (hốt cốt) vào hũ và
đem gửi vào chùa hay nhà thờ. Có người đem cốt rải xuống sông, xuống biển giống
như cốt của Nữ thủ tướng Ấn Độ
Grandhi được rải xuống sông Hằng Hà.
Ở Tây
Tạng có hình thức Điểu Táng. Xác người
chết (có thể bị cắt nhỏ) mang lên đỉnh núi làm thực phẩn cho Diều hâu.
Ở
Trung Hoa có hình thức Huyền Táng : người
ta đem quan tài treo trên triền núi.
Còn ở
Việt Nam vào thời hậu Lê có cách mai táng độc đáo hơn. Chính là Tượng Táng. Xương người chết được sắp xếp
lại và dắp thành tượng để thờ trong chùa. (“Bí
mật phía sau thi hài ở chùa Đậu” – theo
bài viết của Hồng Quang, báo SGGP ngày18-8-1999).
Muốn
chết cho rảnh nợ! Mà người chết đâu có yên thân!
Bên cạnh
xác người vừa được tẩm niệm trong “Bốn tấm
dài, hai tấm ngắn” có biết bao nhiêu chuyện vui buồn ngang trái xảy ra ở
chung quanh…! Đám tang cũng là dịp để khoe khoang, phô trương sự giàu có và uy
thế! Nhiều khi từ việc mượn nước mắt, tiếng khóc và lời than vãn bi ai để kể lể,
kể ơn, kể oán, kể tội, nhiều khi cũng để trách cứ lẫn nhau. Đi phúng điếu cũng
là dịp trả oán, trả ơn, trả nghĩa và cũng là dịp để …Hối lộ bề trên nữa!
Con
người chỉ là một sinh vật cần không khí, nước cũng như thực phẩm để mà sống.
Thiếu ăn, thiếu uống còn có thể thoi thóp một thời gian, chứ thiếu không khí
thì tim sẽ ngừng đập, và chỉ có một
đường binh (binh xập xám) là chui
vào hòm gỗ đem chôn.
Nhưng
khốn nỗi nếu còn thoi thóp thở thì vẫn có nhiều việc phải làm, như các cụ xưa
có nói:
“Tam thốn khí tại, thiên bang dụng…
Và
khí đi rồi thì:
Nhất đán vô thường, vạn sự hưu”
Than
ôi! Đời dâu bể tất cả chỉ là vô thưởng,
mộng ảo, chỉ đến khí trút hơi thơ cuối
cùng, gửi nắm xương tàn dưới ba thước
đất ta mới được yên thân.
Thế mới
hay chỉ có “ba thước đất” sẽ giải quyết
được mọi vấn đề! Ta mới rứt mọi lụy trần,
thân xác chỉ còn là đống tro tàn tan
trong hư vô.
Tục
ngữ Pháp có câu:
“Six pieds de la terre suffissent aux
plus grand hommes”.
Ngay
chính vua Tự Đức ngồi trên ngai vàng cũng than:
“Khôn dại chẳng qua ba thước đất,
Giàu sang chưa chín một nồi kê!”
Cuối
cùng có lẽ chúng ta cũng nên quên đi chuyện sống, chuyện chết mà suy ngẫm về mấy
câu thơ cổ:
“Ký quy tam xích thổ.
Nan giải bách niên thân.
Vị quy tam xích thổ.
Nan giải bách niên phần”
Tạm dịch:
“Chưa về ba thước đất,
Lo chi chuyện trăm năm.
Đã về ba thước đất.
Lo chi chuyện mộ phần”.
Người Hà Nội.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen