Donnerstag, 23. Oktober 2008

CƯỚP NGÀY Ở PHỐ WALL!

CƯỚP NGÀY Ở PHỐ WALL!
Hoàng Ngọc Nguyên

Có nhiều cách chơi người Việt ta vẫn tự hào nghĩ là của ta, nhưng hóa ra trong chính trị, thủ đoạn đông tây kim cổ đều giống nhau. Sau cuộc tranh luận lần thứ ba giữa hai ứng cử viên tổng thống Barack Obama và John McCain để cho ứng cử viên của đảng Dân chủ có dịp nói rằng “Có hai thì phải có ba”, nhân vật “người hùng” của đảng Cộng Hòa dã lên tiếng cho thấy mình là con người bất khuất. Ông đe rằng đừng nghĩ cuộc vận động của ông là đã vãn. Ông nói ông rất sung sướng được là người “dưới cơ” (underdog), ông dùng sử sách của mình để chứng minh rằng ông là người luôn luôn nổi lên được trong nghịch cảnh, cũng như một đội banh cứ ưa bị dẫn trước mới chơi hay được. Chiến dịch tranh cử của ông càng ngày càng đi xa mục tiêu của cử tri với những vấn đề của họ mà càng tập trung nhiều hơn vào việc đánh phá đối thủ của mình. Khi người ta yêu cầu ông đừng đi theo lối vận động “tiêu cực”, ông trả lời “Không đánh phá đối thủ của mình thì đánh phá ai. Cần cho cử tri biết bộ mặt thật của Barack Obama”. Trong những lời nói của ông và bà Sarah Palin luôn luôn có âm điệu hận thù, đến độ họ chẳng làm việc thận trọng tối thiểu: nhìn lại chính bản thân của mình với hàng loạt tai tiếng chưa có giải đáp.
McCain hay McCarthy?
Vì chỉ có chưa được ba tuần nữa là người dân đã đi bầu, cho nên John McCain phải chủ trương đánh nhanh, đánh mạnh, đánh vội mà không cần đánh vững chắc. Do đó, cuộc vận động của McCain tuy không còn thì giở để chuyển qua một hướng mới nhưng leo thang ở một độ cao mới bằng cách tố cáo Barack Obama đi theo chủ nghĩa xã hội. McCain rất hiều người Mỹ ghét gì, sợ gì, ngại gì cho nên ông nghĩ cho Obama đội cái nón cối ông mua làm kỷ niệm ở Hồ Trúc Bạch khi đi thăm Hà Nội là thượng sách. Cứ xem cách McCain và Palin nhắc nhờ cử tri về nguồn gốc chủng tộc của Barack Obama. Người ta ít nhắc đến bà mẹ da trắng và là một tiến sĩ về tâm lý xã hội học của Obama mà chỉ nói về người cha Kenya. Và khi người ta cứ nhắc đến nguồn gốc Kenya của ông, người ta lại cho ông trang phục như một tín đồ Hồi giáo đang đi dự Mecca. Chúng ta cũng biết đa số người Mỹ da trắng nghĩ thế nào về người Hồi giáo. Và như sợ cử tri chưa hiều được hết ý đồ của người vận động, người ta lại cho ra những hí họa như trên tờ New Yroker chẳng hạn để mô tả ông như một người ủng hộ khủng bố hay chính bản thân ông là một ngưòi chủ trương khủng bố. Như thể người Mỹ chưa đủ sợ về ông, người ta nói ông khuynh tả, dính líu với cả khủng bố quốc tế và cả khủng bố trong nước, đề cập đến một nhân vật từ những năm 70 chủ trương đánh bom vào Capitol Hill và Ngũ Giác Đài, nhưng nay lại là một giáo sư về khoa giáo dục ở Đại học Illinois, William Ayers. Và người ta gán cho Obama có quan hệ với ACORN, một tổ chức tranh đấu cho nhân quyền. Ngay cả chính ông cựu Ngoại trưởng Colin Powell, phục vụ dưới nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Bush, cũng phải lắc đầu trước thái độ “maverick” của McCain.
Và nay thì cả McCain và Palin đều gọi ông Obama là người theo đường lối chủ nghĩa xã hội. Đối với người Mỹ, chủ nghĩa xã hội và cộng sản hầu như là một. Người ta thường không phân biệt giữa hai thứ đó, trong thực tế. Người Mỹ kinh tởm, ghê sợ cộng sản như thế nào là điều dễ thấy. Cái thời săn bắt phù thủy cộng sản của Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy của tiêu bang Wisconsin đã qua đến gần 55 năm rồi, nhưng người học sử đều có thể biết được cái khổ của những người bị chụp mũ đến độ mất sở, mất cả quan hệ trong xã hội. Về mặt chính trị, chủ nghĩa cộng sản là độc tài đảng trị, là áp bức, chà đạp lên quyền con người. Vế mặt quốc tế, chủ nghĩa cộng sản là sự xâm lăng, lật đổ những chế độ tự do, độc lập nhằm mục đích xích hóa, nhuộm đỏ toàn cầu. Về kinh tế, cộng sản dưới chiêu bài chủ nghĩa xã hội nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, tước đoạt của người giàu để phân phối lại cho người nghèo.
Nay, ông McCain đang tố cáo chính sách thuế cũng như chính sách về chăm sóc y tế đại chúng của Obama là sự “cổ vũ cho chủ nghĩa xã hội”. Ông nhắc đến câu của Obama “spread the weath” (dàn trải của cải vật chất) và ông cho rằng đó là một ý niệm của chủ nghĩa xã hội. McCain nói: “Ông ta tin ở chuyện tái phân phối tài nguyên– không phải tin những chính sách làm cho nến kinh tế của ta phát triển và tạo ra công ăn việc làm và những cơ hội cho tất cả mọi người Mỹ. Thượng nghị sĩ Obama chú tâm hơn đến việc kiểm soát ai được phần chiếc bánh hơn là làm cho chiếc bánh lớn ra.”
Khác biệt căn bản giữa hai ứng cử viên là ở chỗ ông Obama chủ trương phải nâng đỡ giới “trung lưu” (middle class) và thấp hơn, với lợi tức “trung bình’ hay lợi tức dưới mức nghèo khổ, chiếm đến 95% dân số, bằng biện pháp cắt giảm thuế, trong khi cần phải buộc giới có thu nhập cao hơn 250.000 một năm đóng thuế nhiều hơn. Cái lô-gích dường như khá rõ: ai có lợi tức cao, đóng thuế nhiều hơn, ai có thu nhập thấp hơn, đóng thuế ít hơn hay không đóng thuế. Ông McCain lại chủ trương cắt giảm thuế đồng loạt như kiều ông Bush, người nghèo it tiến hơn thì cắt giảm ít hơn, người giàu có thì nhiếu tiến hơn cho nên cắt giảm cũng đáng kể hơn. Ông McCain lý luận rằng đến 40% người dân Mỹ không trả thuế thì “làm sao giảm được số zero”. Nay bớt thuế cho họ và cho 55% người đóng thuế thấp có nghĩa là “cho họ những tấm check lấy từ tiến của những người giàu đóng thuế”. Lấy tiền người giàu phân phát cho người nghèo là “chủ nghĩa xã hội”. Và không ưu đãi thuế cho người giàu thì họ không đủ sức cạnh tranh do đó sẽ không mở rộng kinh doanh. Cái bánh phải chia ra rốt cuộc chảng lớn hơn được.
Ông McCain hứa rằng dù năm nay thiếu hụt ngân sách sẽ lên đến 454 tỉ, sang năm sẽ lên càng vô chừng hơn khi các kế hoạch giải cứu kinh tế sẽ ngốn đến cả ngàn tỷ hay hơn nữa của ngân sách, nhưng đến năm 2013 ông sẽ thăng bằng ngân sách! Người với khả năng suy luận bình thường cũng biết ông nói chơi, vì chi tiêu thì như thế, mà thu ngân sách thì cứ bị cắt giảm thuế này nọ, làm sao thăng bằng được.
Người giàu vừa “chẳng ưa” vừa sợ người nghèo. Họ lại sợ nhất là giải pháp “quốc hữu hóa”, lấy của cải của họ mà chia chác cho người nghèo. Nhu kiểu Robinhood 4ở rừng Sherwood. Đó là cách làm “xa hội chủ nghĩa” của nhiều nước Châu Âu. Cho nên ông McCain tố là ông Obama được một số lãnh tự châu Âu ngưỡng mộ. Tóm lại, cách đả phá của McCain nhằm vào Obama là với văn hóa chính trị của Mỹ, Obama là người cuối cùng có những đặc tính Mỹ trong người. Khi nói như thế bất kể sự lên tiếng ủng hộ chính thức dành cho Obama của nhiếu nhân vật, nhiều tổ chức, nhiếu tờ báo có uy tín, như New York Times, Washington Post, Los Angeles Times, Esquire…e rằng ông McCain chỉ làm hại ông nhiều hơn mà thôi.
Công bằng xã hội
Trong cà một hai tháng qua, người ta khắp nơi trên thế giới ta thán về chủ nghĩa tư bản. Hội nghị G7. Hội nghị EU. Hội nghị cac nước nói tiếng Pháp. Hội nghị IMF. Hội nghị World Bank. Có điều có thể rút ra từ những phân tích thời cuộc là sự kém hiểu quả trong việc lãnh đạo kinh doanh của những ông lớn ở các đại công ty, và sự lạm dụng, lạm quyền của hệ thống tư bản chủ nghĩa của những người này được thấy trong thu nhập mọi loại mà họ lãnh. Trong khi một người dân lợi tức thấp được giảm thuế nhiềiu lắm vài trăm, vài ngàn, thì một ông CEO bình thường bên Mỹ kiếm được một năm cả một hai chục triệu tiền lương chính thức, chưa nói đến những khoản “ghost account” (tài khoản ma) như một nhà điều tra nghiên cứu gấn đây công bố trên tờ New York Times. Và ít nhất những biên pháp giảm thuế cho người giàu của ông Bush và McCain tiếp tục ủng hộ đã làm cho những ông nhà giàu này được thêm 700.000 đo-la một năm. Hay chính phủ mất đi 700.000 một năm một người – đó là lý do vì sao chính phủ không thể rộng rãi được trong chính sách bảo hiểm y tế cho trẻ em!
Con số 700.000 đồng này do ban vận động của Obama đưa ra dựa trên một cuộc khảo sát 500 công ty hàng đầu của tạp chí Fortune cho thấy CEO cỡ trung bình của những công ty này kiếm được một mức lương là 12.8 triệu trong năm 2007. Chính sách cắt giảm thuế hiện nay của Bush sẽ hết hạn vào tháng giêng năm 2011, nhưng McCain đã long trọng hứa rằng nếu đắc cử ông ta sẽ vận động cho chúng được tái tục. Obama chủ trương những người giàu quá chẳng những không được giảm thuế, mà còn phải đóng thuế thêm. Trong khi đó, người nghèo, theo Obama phải được giảm thuế nhiều hơn. Trước chính sách đó của Obama, McCain tiếp tục mô tả là “chính sách tăng thuế” làm cho cá c kinh doanh không làm ăn được đưa đến cắt giảm công ăn việc làm. Ông McCain không dám nhìn thẳng vào vấn đề công bằng xã hội, vào trách nhiệm của kinh doanh đối với sự an lạc, ổn định của người dân nói chung. Nước Mỹ hiện nay có gần 500 tỉ phú và 2.6 triệu triệu phú (8.9% dân số). Bàng chính sách thuế và bằng chính sách buông lỏng quản lý (deregulation) của Tổng thống Bush, rõ rệt là người ta đã lấy của cảicủa người nghèo để cho người giàu - nếu không muốn nói bóc lột và lường gạt người nghèo để người giàu giàu thêm.
Vấn đề cái giàu của người giàu hiện nay trong nhiều trường hợp là vô đạo, là bất công, là ăn cướp, là lường gạt. Nếu ai có lo ngại sự trở lại của chủ nghĩa cộng sản hay thứ chủ nghĩa xã hội vô hồn một thời thống trị cả hàng tỳ người trên thế giới, họ phải để ý rằng hiện nay ở Nga, ở Trung Quốc, ở Việt Nam… . chẳng ai bận tâm đến vấn đề chủ nghĩa cả, vì ai cũng duy vật, sợ mất tiền trong thời khủng hoảng toàn cầu. Những nhà lý luận đều nín lặng bởi vì họ sợ phải nói hố một lần nữa. Nhưng trong thực tế, chưa bao giờ chủ nghĩa tu bản cho thấy sự khủng hoảng tàn tệ như hiện nay, chỉ vì cái tham vô hạn của con người đi đôi với quyền lực vô hình không kếm chế, dã làm cho người ta chẳng hiểu thế nào là cái chủ nghĩa thị trường hiện nay.
Động lực của khoa học quản lý của Mỹ, nhiễm không ít “tư tưởng tôn giáo” của George Bush, là lợi ích tư bản của con người, của cá nhân. Khi lợi ích đó tràn ngập trong mắt người quản lý, người ta chỉ thấy tiền đi vào tài khoản của mình, thì họ dễ không thấy, dễ bị bịt mắt, dễ làm ngơ hay chép miệng trước những bất trắc của Thượng Đế. Từ lâu, người ta đã thấy chủ nghĩa cá nhân thống trị mạnh mẽ trong môi trường kinh doanh của Mỹ. Cứ xem những khoản thu nhập trên mọi mặt mà các diễn viên điện ảnh, các ca sĩ thượng thặng, các vận động viên nhà nghề trong những môn bóng rỗ, bóng đá, quần vợt… được hưởng. Và những nhà quản lý cũng nhanh chóng tự vẽ bùa mà đeo. Họ cho rằng “bàn tay ta làm nên tất cả”, mọi sự thành công của doanh nghiệp là do tài quản lý của họ hơn là một sự thành công trong một khung cảnh có những điều kiện thuận lợi mà những quyết định kinh doanh “đều như đã được viết sẵn như lời sấm truyền ghi khắc trên hang đá”. Bởi vì tự cho mình có công cho nên họ tìm cách tự thưởng cho chính mình bằng đủ mọi loại thù lao, từ lương căn bản, đến tiền thưởng (dù cho công ty thua lỗ), đến những khoản “chi trả và bù đắp”, và những những khoản tiến thực hiện nhờ những “cổ phần thưởng công”.
Từ lâu, những khoản thu nhập của những ông tổng giám đốc đã bị phê phán, nhưng chủ nghĩa cá nhân đã làm cho ý thức về tư cách, danh dự và liêm sỉ của con người ở vị trí càng cao lại càng sa xuống thấp. Theo tờ New York Times số ra ngày 6-10, Richard Fuld Jr, tổng giám đốc của công ty Lehman Brothers vừa sập tiêm, đã nhận 256 triệu trong vòng năm năm qua. Trung bình một năm 51 triệu. Một tuần một triệu. Kenneth Lewis, chủ tịch và tổng giám đốc của Bank of America chỉ được 133 triệu, trung bình một tuần chỉ được nửa triệu. Đó là lý do ông ta có thể ganh tỵ với ông Fuld. James Cayne, chủ tịch công ty sập tiệm Bear&Stearn, gặp hoàn cảnh công ty khó khăn, nên chỉ bỏ túi 82.5 triệu trong năm năm. Còn ông tổng giám đốc Joseph Cassano của AIG vừa được chính phủ mua lại đó, trong tám năm qua ẳm được 280 triệu. Nay công ty của ông đã được quốc doanh, một tháng ông vẫn lãnh một triệu. Một tuần sau khi được chính phủ ra tay tiếp cứu, AIG tổ chức một tuần “ăn mừng” cho mấy ông lớn của họ ở nơi ăn chơi St. Regis Resort ở Monarch Beach, Cali, tốn hết thảy 442.000 đô la, trong đó có 23.000 đô tiền đấm bóp! Cũng theo bài báo trên New York Times, sau khi AIG báo cáo lỗ 5 tỉ trong quí cuối cùng của năm 2007, ông Martin Sullivan, tổng giám đốc của AIG thời đó, cũng ra trước một ủy ban xét khen thưởng để đòi những viên chức quản lý hàng đầu được hưởng tiền thưởng. Ông ta được 5 triệu năm đo!
Thu nhập quá mức bình thường 100 lần, 1000 lần so với thu nhập trung bình của nhân viên phải gọi là thu nhập phi nhân không thê tồn tại được. Nó chỉ tồn tại bằng sự trâng tráo tự lừa dối mình, lừa dối người. Công bằng, công lý, lẽ phải, song phẳng… phải là luật chơi cho bất cứ mô hình quản lý nào. Sự tồn tại của bất cứ hoạt động nào trong xã hội cũng phải có nến tảng là lương tri của con người. Người ta nói Nhật Bản đang điều chỉnh mô hình của họ. Công ty không đòi hỏi sự trung thành tuyệt đối của nhân viên, nhưng vẫn tìm cách thuyết phục sự trung thành bằng cách xem biên pháp cho nghỉ việc là bước cuối cùng thay vỉ là biện pháp đầu tiên khi xí nghiệp gặp khó khăn. Và khi phải cắt lương để cho chi phí được kềm chế, bắt đầu phải là những người trên cao, không phải từ những người dưới thấp. Và giữ một tỷ lệ về lương người trên và lương người dưới để cho thấy liêm sỉ là vấn đề đáng coi trọng hơn tiền bạc. Một dân biểu khi chất vấn ông Tổng giám đốc Lehman Brothers, Richard Fuld Jr., đã nổi nóng: “Các ông không thấy tội lỗi khi lừa gạt những người đầu tư? Các ông không còn liêm sĩ gì hay sao khi không dám đứng ra xin lỗi người dân?”
Khi những ông ở Wall Street có thể lãnh những khoản thu nhập gấp ngàn lần người bình thường, không thề có cách gì gọi khác hơn là sự ăn cướp. Đúng như lời người xưa đã cảnh cáo:
Con ơi nhớ lấy lời này
Cướp đêm là giặc cướp ngày ở phố Wall!

Keine Kommentare: