Donnerstag, 23. Oktober 2008

SOFA KHÔNG ÊM Ả!

SOFA KHÔNG ÊM Ả!
Hoàng Ngọc Nguyên
Viet Tribune

Vào một lúc không ai tính đến và vì một chuyện không ai tính đến, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iraq, “đồng minh chiến lược” của Mỹ ở Trung Đông, đang có vẻ căng thẳng khác thường. Vấn đề là ở một chỗ ngồi êm ái cho quân Mỹ trong thời gian tới ở vùng dầu hỏa này, cụ thể hơn là Hiệp định về Qui chế Lực lượng (Mỹ đóng tại Iraq), viết tắt là SOFA (Status of Forces Agreement). Phía Iraq đã thông báo cho Mỹ biết là họ không sẵn sàng ký ở “nguyên trạng” – văn bản mà cả hai bên đã mất đúng một năm để thương lượng. Mỹ nói rằng đó là bản cuối cùng, không ký thì thôi, và sau tháng 12 này, nếu chưa ký, quân Mỹ ở Iraq sẽ chẳng nhúc nhích gì cả, để mặt quân Iraq một mình đối phó với phiến quân. Người ta có thể nói: đã gần bấu cử bên Mỹ rồi mà còn phiền quá. Nhưng cũng có thể nói rằng vì gần bầu cử rồi cho nên mới phiền như thế. Điều đáng nói ở đây là Iraq cho thấy sự quan tâm của tất cả những phe phái khác nhau với chủ quyển đất nước của họ. Và chúng ta lại nghĩ đến chuyện xưa: trong chiến tranh Việt Nam, tiếng nói của những lực lượng chính trị khác nhau của miền Nam Việt Nam ở đâu trong những năm như 1968 và 1972 chẳng hạn.

Iraq trở quẻ?
Phải chăng ông Bush nôn nóng trong việc ký hiệp định này là vì John McCain. Hay vì đảng Cộng Hòa cũng đang đứng trước những cuộc bầu cử Thượng Viện và Hạ Viện đồng thời mà ai cũng tiên đoán là thời cơ sẽ hoàn toàn về phía đảng Dân Chủ. Đó cũng có thể là một trong những lý do chính. Nếu hiệp định này đưa ra qui định rõ ràng đến năm 2011 lính Mỹ sẽ rút hết khỏi Iraq, và từ nay đến đó chỉ tập trung chủ yếu vào việc huấn luyện và yểm trợ, những người đảng Cộng Hòa, kể cả John McCain, có thể cho rằng họ đã “thành công” trong việc ủng hộ cuộc chiến tranh này. Và đương nhiên, nếu hiệp định này được ký kết trước khi ông Bush ra đi, ông có thể cầm lấy nó mà vung vẩy trước lịch sử.
Tuy nhiên, cần đặt hiệp định này và cuộc thương thảo trong bối cảnh lịch sử của nó. Mặc dù Hoa Kỳ đơn phương đưa quân xâm lăng Iraq và sau đó mới kéo thêm “liên quân” tham dự, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc sau đó đã ra nghị quyết cho quân Mỹ và các nước tham dự vào liên minh do Mỹ cầm đầu hoạt động ở Iraq đến kỳ hạn 31-12-2008, sau đó phải có thỏa thuận mới giữa Mỹ và Iraq. Việc thương thảo này một mặt khác là có phần chủ động của chính quyền Baghdad, vì tất cả những phe phái ở Iraq không muốn Mỹ dính vào chuyện nội bộ của họ, và cũng đặt nặng vấn đề chủ quyền của Iraq, cụ thể là trên đất nước của họ, chỉ có một luật pháp mà thôi, là luật pháp của người Iraq.
Cách đây một tháng, cả hai phía Mỹ và Iraq thở phào tuyên bố việc đàm phán kể như xong, sau gần cả một năm trời cam go tranh đấu giữa hai bên, nay chỉ cần ký kết. Nội dung chính là Mỹ sẽ rút quân với kỳ hạn là tháng 12 năm 2011, tùy theo tình hình an ninh diễn tiến như thế nào, và có sự yêu cầu nào của phía Iraq thay đổi lịch trình này hay không. Trong năm tới, quân Mỹ cũng rút dần ra khỏi các thành phố chính và trở về các căn cứ quân sự của mình. Một vấn đề thương thảo gay go mà cuối cùng phía Mỹ đã phải nhượng bộ là những công ty “thầu an ninh” của Mỹ hoạt động tại Iraq cũng như lính Mỹ tại Iraq, nếu phạm tội trong khi “không đang làm nhiệm vụ” (off duty) bên ngoài căn cứ Mỹ thì sự xét xử là thuộc thẩm quyền tài phán của ai. Mỹ muốn áp dụng quân luật của Mỹ đối với những trường hợp này, nhưng Iraq cương quyết đòi hỏi những người phạm tội phải ra trước tòa án Hồi giáo của Iraq. Mỹ nhượng bộ bằng cách cho tòa án Iraq một số quyền hạn “nhất định”, nhưng không tất cả, không vô giới hạn.
Mỹ lúc ban đầu muốn thỏa hiệp này được ký vào giữa mùa hè. Trước sự mặc cả của phía Thủ tướng Nouri al-Maliki của Iraq, người ta dời lại đến đầu tháng 10 để hoàn thành văn bản cuối cùng, và cả hai bên đều nói văn bản này là hoàn hảo lắm rồi, “sẽ không sửa đổi gì nữa cả”. Tuy nhiên, cái bước đầu ở Baghdad đã không thể vượt qua được với bao nhiêu rào cản: từ Hội đồng An ninh Quốc gia, đến nội các của Thủ tướng Maliki, và ngay chính ông Maliki cũng không sẵn sàng. Dường như ông muốn để qua bầu cử Mỹ rồi hãy hay. Hay qua bầu cử chính quyền địa phưiơng ở Iraq. Trong khi ở ngoài phố người ta biểu tình chống thỏa hiệp đó, ở Quốc Hội, những nhóm chính thuộc giáo phái Shiite, Sunni và vùng Kurd đều nhất quyết đòi phải tu chỉnh “ít nhất bảy điểm” họ mới bỏ phiếu thuận. Có tin là Iran đã tìm cách mua chuộc những dân biểu Quốc Hội Iraq là người Shiite để cho họ chống cho bằng được việc thông qua SOFA. Tổng thống Iran rõ rệt đã nhất quyết không để cho ông Bush được yên.

Không phải ý Mỹ là ý trời!
Cho đến nay, cả Tổng thống George Bush, Bộ trưởng Ngoại giao Condoleezza Rice, Bộ trưởng Quốc phòng Roibert Gates đều chưa có phản ứng. Nhưng sự nôn nóng đã hiện rõ ở những người ở Ngũ Giác Đài – vì quân của họ ở đó! Đô đốc Hải Quân Mike Mullen, Chủ tịch Hội đồng Liên quân, hôm thứ ba đã lên tiếng cảnh cáo “Iraq không còn mấy thì giờ” để chấp thuận hiệp định song phưong này. Ông cũng tố cáo là Iran đã tìm cách phá hoại những nỗ lực thương thảo và thông qua hiệp định này. Ông nói ông “ngày càng quan ngại nhiều hơn trước những phê phán mạnh mẽ của công luận trong nội bộ Iraq về nội dung bản thảo hiệp định” và nói thẳng “những lực lượng quân đội và cảnh sát Iraq không đủ sức chống lại bạo động của bọn khủng bố và phiến loạn sau ngày 31-12 nếu không có sự giúp đỡ của các lực lượng Mỹ yểm trợ không lực và pháo binh”. Ông nói: “Người Iraq chưa thể lo được cho an ninh của chính họ.” Theo ông, người Iraq chưa nhận thức được hiệp định này là tối yếu cho an ninh tương lai của Iraq.
Nói gì thì nói, nhất định Iraq sẽ không thông qua hiệp định SOFA này trước khi có thương lượng trở lại. Lý do là người ta thấy có nhiều điều khoản chưa ổn. Những nhượng bộ của Mỹ chưa thỏa đáng. Nếu hiệp định này không được ký kết trước 31-12, sau ngày đó lính Mỹ sẽ ở yên trong căn cứ, hết đi tuần, máy bay hết bay, và phải tính đến chuyện rút về nước. Nhưng cũng sẽ có những cách “gia hạn” vài tháng hay nửa năm, thông qua cơ chế của Hội đồng Bảo an của Liên Hiệp Quốc, hay một tạm ước giữa Bộ ngoại giao hai bên… Nhưng Iraq chắc chắn sẽ chẳng dại gì mà cho ông Bush vài viên tylenol.
Sự đối kháng này về phía Iraq phải cho người ta một vài bài học về địa lý tôn giáo chính trị. Iraq là một nước A-Rập, Hồi giáo, nằm ở vùng Trung Đông dầu hỏa. Về chiến thuật, có thể chế độ hiện tại ở Baghdad tạm thời phải dựa vào Mỹ, nhưng còn lâu Iraq mới là “của Mỹ, do Mỹ và vì Mỹ”. Maliki chẳng hạn. Mỹ dựng ông ta lên được mấy phần, ta không biết, nhưng chắc chắn ông ta hiểu ông là người của Iraq, của giáo phái Shiite, trước khi là người của Mỹ. Sự tồn tại chính trị của ông là do liên minh các đảng Shiite mà thành, hơn là công ơn của Bush, của Rice hay của Petraeus. Có giáo phái nào, đảng chính trị nào ở Iraq thích Mỹ ở nước họ lâu dài để bảo vệ họ hay không? Cứ thấy việc người ta sợ Mỹ sau 2011 tìm cách ở lại dựa theo điều khoản “tùy thuộc vào tình hình…” và “yêu cầu của chính quyền Iraq…” thì đủ thấy. Mặt khác, ông Maliki đã đồng ý với ông Barack Obama là Mỹ có thể rút sớm nhất là vào giữa năm 2010, tức 18 tháng trước hạn kỳ của Bush. Triển vọng đắc cử của Obama là rất sáng sủa. Và cho dù McCain có thành công, Baghdad nay chẳng muốn ký kết cái gì với Tổng thống Bush cả. Trước cuộc bầu cử trong nước ở Iraq, ông Maliki không muốn mang tiê ng thỏa hiệp với Washington, nhất là Washington của Bush!

Khi Mỹ còn là ông trời!

Một nhà bình luận của BBC gần đây đã nhận định rằng không có cách nào Thượng nghị sĩ John McCain của đảng Cộng Hòa có thể lội dòng nước ngược trong cuộc tranh cử hiện nay với ứng cử viên của đảng Dân Chủ Thượng nghị sĩ Barack Obama, trừ phi có một chuyển biến có tính cách phép lạ xảy ra, và chuyển biến đó có thể là một hiệp định giữa Hoa Kỳ và Iraq về vấn đề rút quân. Nhà bình luận này nhắc lại rằng 40 năm trước đây, một tình thế hầu như tương tự đã xảy ra khi ứng cử viên Hubert Humphrey của đảng Dân Chủ tranh cử với Richard Nixon cũa đảng Cộng Hòa. Trước cuộc bầu cử ba tuần, Humphrey, vốn là Phó tổng thống đương nhiệm của Tổng thống Lyndon Baines Johnson, đang bị Nixon dẫn đến 8-9 điểm. Vào lúc đó, tình hình vận động hòa đàm giữa Mỹ và Bác Việt đang có vẻ bế tắc. Mỹ cứ dội bom miền bắc làm áp lực. Hà Nội cứ nhất định đòi cho Mặt trận Giải phóng Miền Nam có mặt ở hòa đàm, nhưng lại không chịu nhìn nhận sự hiện diện của Saigon. Trong khi đó, Nguyễn Văn Thiệu đã đi đêm với Nixon cho nên cũng ngúng nguẩy “không tham dự nếu có mặt của Mặt trận”. Nhưng ngày 31-10, bất chấp Việt Nam Cộng Hòa, Tổng thống Lyndon Johnson đã thông báo quyết định ngưng oanh tạc miền bắc vì Mỹ và Bắc Việt đạt được một thỏa thuận về hòa đàm hai phía bốn bên. Kết cuộc, Humphrey vẫn thua, nhưng chỉ trong đường tơ kẽ tóc. Người ta nói rằng nếu quyết định này đến sớm hơn 1-2 tuần, người thắng cuộc năm đó có thể không phải là Nixon!
Miền Nam Việt Nam vốn là cái thời, cái nơi cho Mỹ làm trời. Ông Thiệu bình sinh vẫn khoái hai chuyện: chơi được Johnson vào năm 1968 khiến cho Humphrey không đắc cử, mặc dù chưa chắc Humphrey thất bại vì ông không nhanh chóng ủng hộ kế hoạch hòa đàm của Johnson; làm khó dễ được Nixon vào năm 1972 cũng là năm bầu cử ở Mỹ khiến cho Nixon phải nổi giận, mặc dù cuối cùng Mỹ cũng nghe lời Cộng Sản miền bắc mà rút quân. Nhưng ai cũng biết ông Thiệu đêm ngày sợ bị CIA lật, sợ bị CIA giết. Làm nư chơi thì làm, làm thật thì không. Bởi vì sau lưng ông chẳng có ai ủng hộ. Và ai cũng biết và ông cũng biết ông còn đứng được là do Mỹ dựng lên, Mỹ muốn giữ cho tiện việc. Cho nên ông không dám nói không như Maliki. Ông không được như Maliki. Chế độ của ông hay hệ thống của ông cũng khác với chế độ, hệ thống của Maliki. Các giáo phái, các đảng phái, các địa phương, giới trí thức… đều đứng ngoài quá trình quyết định vận mệnh của đất nước.
Cái chữ “ Tổ quốc ăn năn” của Nguyễn Gia Kiểng nghe có vẻ như cuồng chữ, trừ phi nó nói rằng những người của miền nam trong thời đó, đạc biệt là giới lãnh đạo, quân đội, tôn giáo, chính đảng, trí thức… phải cảm thấy mình có trách nhiệm lớn đối với long tự trọng, tự hào của dân tộc.

Keine Kommentare: