Hoàng Ngọc Nguyên
Thứ bảy này là lần thứ 45 ngày 1-11-1963 lại trở về trong tâm tư của một số người Việt đã từng sống trong thời kỳ biến động đó của miền nam.
Ở trong nước, chắc chắn rằng chẳng có ai nhắc nhớ gì đến ngày đó, với chủ trương “hiện sinh” hiện nay của lãnh đạo tại Hà Nội, chỉ sống cho hiện tại, quá khứ có nhiều khoảng tối không nên nhớ, tương lai thì chắc chẳng thuộc về ta, càng nên quên. Ở nước ngoài, trong số hơn 2 triệu người tha hương này trên khắp thế giới, đã gần nửa thế kỷ trôi qua, có bao nhiêu người đã biết được ngày đó, và có gì có thể còn làm cho người ta chạnh lòng khi nghĩ đên lịch sử của đất nước. Đáng tiếc thay, đang sống trên đất Mỹ, người ta đôi khi cảm thấy khó nói với nhau vì nhiều người qua đây chỉ thích nghe chính mình, và càng khó nói với những người chủ nhà về những chuyện ngày xưa mặc dù cái hệ lụy của chúng có thể liên quan đến chuyện ngày nay.
Cực điểm của khủng hoảng
Những người có thể biết được biến dộng Phật giáo và cuộc đảo chánh quân đội lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm nay đều đã vào tuổi sáu mươi mấy. Những người có thể đã “sống thực” với biến chuyển lịch sử trọng đại đó nay đã phải qua tuổi thất thập cổ lai hy. Cuộc đời của người Việt chúng ta nói chung đã chịu quá nhiều thử thách, có bao nhiêu vết thương quá khứ đã để lại cho mỗi người, nhưng thời gian đã dần dần làm lành lặn lại da thịt đang ngày càng nhăn nheo. Nhưng những người đã biết hay đã sống trong những ngày đó cách đây 45 năm hẳn phải đồng ý với nhau rằng cuộc “cách mạng” đó hẳn phải xảy ra, và “cách mạng” đó phải thành công.
Biến động Phật giáo trong năm 1963 đã chỉ ra sự bế tắc của chế độ của ông Ngô Đình Diệm trong việc nhận diện và giải quyết những vấn đề ngày càng nghiệm trọng của miền nam. Những vấn đề này dĩ nhiên đã nổi lên từ lâu, ít nhất là từ năm 1960, khi nhóm nhân sĩ Caravelle vào tháng tư đưa ra một kiến nghị yêu cầu cải cách, và sáu tháng sau đó là cuộc đảo chánh của lực lượng nhảy dù của tướng Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông, nhưng được không ít giới dân sự ủng hộ. Ngày 27-2-1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom nhắc nhở cho những người ở Dinh Độc Lập nhận thức rằng những vấn đề đã được đặt ra vẫn còn nguyên vẹn không giải quyết. Những biến cố xảy ra năm sau đó, bắt đầu là ở Huế, rồi lan ra ở Saigon và một số tỉnh miến trung, là những diễn tiến có tính cách tất nhiên. Có một ít hy vọng về một khả năng thỏa hiệp giữa chính quyền và lực lượng tranh đấu của Phật giáo qua các cuộc thương lượng vào tháng năm, tháng sáu, nhưng sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm nói rằng “sau Hiến pháp còn có tôi”, và vụ tấn công vào các chùa Phật giáo xảy ra vào tối ngày 20-8, dường như tất cả đã bị mất hết đối với chính quyền ông Diệm.
Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền từ năm 1954 và nền Đệ nhất Cộng Hòa ra đời từ năm 1955 sau cuộc trưng cầu dân ý tấn phong ông làm tổng thống. Trong nhiệm kỳ đầu, ông làm được công tác bình định và phần nào thu phục dân tâm, nhưng lại không làm được nhiệm vụ đoàn kết, là một nhiệm vụ cấp bách nhưng cũng rất khó khăn. Muốn đoàn kết, người ta phải đi ra ngoài và cúi xuống. Ông Diệm chẳng mấy khi đi ra ngoài, và ông thấy rất khó khăn khi phải cúi xuống. Chính quyền của ông là một chính quyền “thiểu số”, về mặt tôn giáo, địa phương và cả chính trị trong nghĩa tập họp các đảng phái chính trị. Sau khi bình định được những lực lượng quốc gia chống đối, ông chỉ nhìn thấy một mục tiêu duy nhất là Cộng Sản mà quên rằng ông không thể một mình chống cộng được. Ông đã làm rất ít để giảm đi tính chất “thiểu số” nơi căn bản chính trị của ông, đó là tôn giáo, địa phương và đảng phái. Ngược lại, ông đi tìm sự ủng hộ mong manh từ những lực lượng được lập ra từ chế độ nhưng thiếu thực chất vì không đi vào được các thành phần trong dân chúng, như Phong trào Cách mạng Quốc gia, phong trào thanh niên, thanh nữ Cộng hòa, chủ thuyết Nhân Vị và đảng Cần Lao của ông Ngô Đình Nhu. Chế độ của ông đã dành nhiều đặc ân cho thiểu số một cách lộ liễu qua uy thế và khả năng ban ơn mưa móc của hai ông Ngô Đình Thục và Ngô Đình Cẩn mà những người lãnh đạo cao nhất như ông Diệm, ông Nhu chẳng làm gì được, thì “cach mạng” 1-11 hẳn phải xảy ra.
Cuộc “cách mạng” đó phải thành công, không chỉ vì chế độ của ông Diệm đã không cho thấy một lãnh đạo có khả năng đáp ứng được những thách đố của lịch sử, mà còn vì các tướng lãnh quân đội, một thời vâng dạ với hai ông Diệm và Nhu, nay phần lớn đã “thức thời”, tham gia Hội đồng Quân nhân Cách mạng đứng đầu là tướng Dương Văn Minh. Đó là một quyết định khó khăn cho nhiều người, như Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, hay Nguyễn Khánh, đã quen ăn cơm chúa, múa tối ngày. Nhưng quân đội là một tập thể có kỷ luật, khi mà người “tổng tư lệnh”, trung tá Lucien Conin đã quyết, thì cấp tướng Việt Nam phải thi hành.
Cuộc đảo chánh ngày 1-11 là cực điểm của cuộc khủng hoảng của Đệ nhất Cộng hòa. Ủng hộ ông Diệm hay chống ông Diệm, đối với nhiếu người một chương cũ đã khép lại và một chương mới chất chứa nhiều mong đợi, hy vọng của người dân đã được mở ra.
Không còn lãnh đạo
Tuy nhiên, khi màn được kéo lên cho một hồi mới, người ta mới thấy một sự hụt hẫng ngày càng gây choáng váng. Bởi vì những gì đã xảy ra là một cuộc đảo chánh sát nhân và chỉ có quá ấu trĩ mới tin được rằng những người ngồi trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng hiểu được ý nghĩa và nhu cầu của một cuộc cách mạng – chưa nói đến việc tiến hành hay không. Nguyên sự kiện người ta đã để xảy ra vụ sát hại hai anh em ông Diệm và ông Nhu cho thấy những ông tuớng tá này, lâu nay ở trong kỹ cương phép nước, nay đã bung ra như Tôn Ngộ Không cởi được cái kim cô trên đầu. Một quân đội không còn lãnh đạo, không có trật tự, kỷ luật thì trước hết tự nó không trưởng thành được, và sau đó thì không thể làm công việc quản trị đất nước. Từ năm 1963 cho đến khi miền nam sụp đổ, sự chuyên quyền của một số tướng lãnh đã đưa đất nước đến sự diệt vong. Thế nhưng cũng đáng để ý là người mở đầu cho giai đoạn 12 năm này cũng là người kết thúc giai đoạn đó - một người đã chứng tỏ năng lực, đảm lược, bản lĩnh lãnh đạo trong cuộc đảo chánh cũng như trong những tháng đầu miền nam bước vào giai đoạn mới, nhưng về sau vẫn được tín nhiệm, tôn sùng như ngọn hải đăng, lãnh tụ đối lập qui tụ dưới trướng nhiều người nam bộ. Ông có “công” giương cao được lá cờ của người miền nam, nhưng ông không đưa ra được một lời hiệu triệu nào xác định phải đi tìm một hướng ra mới cho dân tộc đang mấp mé đứng trên bờ vực. Cuộc cách mạng bất thành trong năm 1963 cũng bắt đầu từ ông, và tấn thảm kịch của miến nam cũng kết thúc ở ông năm 1975. Nhưng cái trách nhiệm suy vong này không phải ở ông mà ở sự chọn lựa dành cho ông là người khai phá ra đường hầm đi thẳng tới ngày 30-4-1975.
Phật giáo chắc rằng không thể nói thành công hay thắng lợi gì với biến cố 1-11, vì nó diễn tiến trong bạo động, kết thúc trong chết chóc, đều là những điều nghịch lại với tinh thần từ bi, hỉ xả của đạo Phật. Sự có mặt của người Mỹ và vai trò của họ trong cuộc chính biến 1-11 cũng làm cho cuộc tranh đấu cho chính nghĩa, cho đạo pháp của Phật giáo giảm đi phần nào sự thiêng liêng của nó. Và phản ứng đắc thắng ở một số nơi làm cho chính nghĩa của đạo pháp dễ bị phê phán. Nhưng quan trọng nhất là giai đoạn về sau, trong cuộc hành trình đi vào đường hầm mịt mù suốt 12 năm sau, Phật giáo là một trong những đầu tàu phiêu lưu vô định đó. Và trong cuộc hành trình này, lạ thay phía Công giáo cũng cùng chung một não trạng xem chuyện đất nước là chuyện của đất nước, chẳng thấy có sự vùng vẫy nào quyết liệt để tìm ra sinh lộ cho cuộc chiến đấu “của miền nam, bởi miền nam và vì miền nam”.
Dưới thời ông Diệm, địa phương, tôn giáo và đảng phái đều bị kềm chế. Sau thời ông Diệm, chẳng còn sự kềm chế, nhưng sự góp phần của các thành phần này cho sức mạnh đoàn kết của quốc gia dường như lại càng tiêu cực hơn. Cách đây 40 năm, sau cuộc tổng tấn công Mậu Thân của cộng sản, người ta cho rằng các đảng phái sẽ phải sớm hành động, liên minh, liên kết, vận động quần chúng ý thức đấu tranh trước sự thách đố có tính cách sống còn của Cộng Sản, nhất là khi đồng minh Hoa Kỳ tỏ đủ dấu hiệu mệt mỏi, muốn rút. Ông Thiệu cũng đứng ra tổ chức liên minh sáu đảng thân chính (gồm cả Lực lương Đại Đoàn kết của Nguyễn Gia Hiến công giáo, Công Nông của Trần Quốc Bửu, Đại Việt của Hà Thúc Ký, Dân Xã của Phan Bá Cầm, …), Trần Văn Đôn cũng đưa ra Mặt trận Cứu nguy Dân tộc. Còn có Phong trào quốc gia Cấp tiến tức Tân Đại Việt của hai giáo sư Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Ngọc Huy. Dương Văn Minh cũng có tổ chức riêng của mình. Sau này, Thiệu còn có đảng Dân Chủ, làm cho các tổ chức vốn theo ông ta chưng hửng… Thế nhưng bao nhiêu đảng phái đều thụ động, tiêu cực để cho Thiệu dẫn dắt đến bờ vực diệt vong. Ngay cả trong những tháng cuối cùng, người ta chẳng thấy mấy cựa quậy, vùng vẫy của các đảng phái dù đã kẹt cứng “trong gọng kèm” của lịch sử”.
Chính sự bất lực của tôn giáo, đảng phái, các địa phương đã làm cho sự kết thúc của Đệ nhất Cộng hòa trở thành phí phạm, không có ý nghĩa.
Cho nên cuối cùng người ta nhìn lại người Mỹ. Cuộc đảo chánh ngày 1-11 cho thấy sự thất bại của người Mỹ trong cách họ tác thành cho những chế độ nằm trong vòng ảnh hưởng của họ. Viện trợ Mỹ không đủ xây dựng những chế độ mạnh. Sự thất bại của họ với nền Đệ nhất Cộng hòa chính là ở chỗ họ ủng hộ một chính quyền “thiểu số” nhưng không tác động đủ mạnh để cho chính quyến đó mở rộng căn bản rộng rãi trong dân chúng. Cho dù Mỹ nổi tiếng có nhiều cơ quan nghiên cứu chiến lược, nhiều nhà nghiên cứu giỏi, Mỹ cũng nổi tiếng là có hiểu biết rất nông cạn ở những nơi họ can thiệp. Thí dụ như Mỹ chẳng hiểu được tính chất phức tạp của tình hình miền nam với bốn thế lực vừa riêng biệt vừa đan chéo: tôn giáo, địa phương, đảng phái và quân đội. Từ sự thất bại ban đầu, họ đã thất bại ngày càng trầm trọng ở miền nam, ngày càng lún sâu vào vũng lầy bởi vì vẫn chủ trương đi tìm “người hùng” (strong man) dễ bảo mà không quan tâm đến việc tạo điều kiện cho sự ra đời một chế độ lành mạnh.
Khi nhìn lại biến cố 1-11, không phải chúng ta nhìn đến một hành động mà một số người cho rằng sai lầm mà nghĩ đến số phận một đất nước đã được quyết định do một cơ hội bị bỏ lỡ.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen