Freitag, 21. November 2008

CẢ HAI ĐỀU LÀ HENRY!

Hoàng Ngọc Nguyên
VietTribune

Năm 1963, Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ. Năm 1975, Đệ nhị Cộng hòa sụp đổ. Hai cái chết đó, khi giảo nghiệm, có kết quả giống nhau: phần số đã hết, mệnh trời đã định.
“Triều chính” nát bét, quần thần lơ láo, lòng dân ly tan, sao chế độ sao còn có thể đứng vững được. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã làm hỏng việc. Nguyễn Văn Thiệu đã làm hỏng việc, tuy trong cái hỏng của từng người, một cái đáng ngậm ngùi, một cái đáng nguyền rũa. Những cái chết này, theo khoa học điều tra phạm trường (CSI), đúng là trường hợp án mạng. Và cái đau đớn và làm thương tổn đến tự ái, tự hào dân tộc lớn nhất của người dân miền nam là cả một thể chế lớn lao như thế, thể hiện sự chọn lựa, lý tưởng, ước vọng đổi đời của một khối quần chúng đông đảo như thế, mà lại có thể chết dễ dàng trong tay của những kẻ sát nhân đơn độc. Những hitmen đó đều có tên Henry.

Henry Terminator
Nói về cái chết của hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm, người ta thường đề cập đến Đại úy Nguyễn Văn Nhung, và vì ông Nhung là người của Tướng Dương Văn Minh, cho nên “Big” Minh cũng đương nhiên bị “liên lụy” một cách hợp lý. Ông Minh thừa biết rằng người ta vẫn cho ông là thủ phạm trong vụ mưu sát này. Ông không hề lên tiếng làm rõ sự việc. Ngay cả trong những năm 70 đám dân biều đối lập người nam theo ông ở Dinh Hoa Lan như Lý Quí Chung, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận… cũng không làm sáng tỏ được sự việc để minh oan cho minh chủ của mình. Sự thực đơn giản là ông Nhung chỉ là kẻ thừa hành, cho dù thừa hành quá mạnh tay, cho nên cũng phải trả giá quá đắt. Ông Minh, nói cho cùng, hay ngay cả những tướng lãnh khác tham dự cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, cũng chỉ là những kẻ thừa hành. Điều đáng buồn là một “cách mạng” hữu lý như thế, lật đổ một chế độ đã không thể đứng vững được nữa, lại được khởi xướng từ người ngoài, dễ thấy nhất là Trung tá Lucien Conein của CIA, nhưng đàng sau ông này chính là Đại sứ Henry Cabot Lodge. Không có Lodge thì “cách mạng” đã không bắt đầu, và đã không thành. Không có Lodge, đố ông tướng nào của miền nam có đủ “dũng khí” hạ sát ông Diệm, ông Nhu. Nhưng chẳng lẽ ông Minh lại nói: “Người ta bảo tôi phải thanh toán hai anh em ông này để diệt trừ hậu họa”.
Điều nhiều nhà nghiên cứu vẫn khẳng định là Tổng thống Thiên chúa giáo John F. Kennedy không có ý định thanh toán chế độ của Tổng thống Thiên chúa giáo Ngô Đình Diệm, không nói đến giết cả hai anh em. Ông Kennedy và một số người cố vấn, phụ tá của ông như Dean Rusk, McGeorge Bundy, Robert MacNamara, vẫn thiên về giải pháp loại trừ ông Ngô Đình Nhu và vợ ông, bà Trần Lệ Xuân, ra khỏi chính trường, nhưng có thể vẫn giữ ông Diệm ở lại. Thế nhưng cũng có một số người nhất quyết dẹp bỏ toàn bộ chế độ này để “xóa bài làm lại”. Người xung kích trong phe này chính là ông Henry Cabot Lodge, với Averell Harriman và Roger Hilsman đứng đàng sau. Lodge chính là ứng cử viên phó tổng thống của Richard Nixon. Lodge cũng là kẻ thù không đội trời chung với Kennedy ở tiểu bang Massachusetts. Kennedy cử Lodge đến Việt Nam thay đại sứ Frederick Nolting vì nhiều lý do, chính yếu là để lôi cuốn đảng Cộng Hòa vào vòng, chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo sự tham gia của Mỹ vào chiến tranh Việt Nam. Đối với Lodge, đây là dịp trở lại chính trường, xây dựng thanh thế một năm trước khi bầu cử tổng thống Mỹ (1964). Ông không có ý định làm theo ý của Tổng thống Kennedy muốn ông làm một mediator (người hòa giải) mà muốn làm theo ý của mình, một “terminator” (người thanh toán) như kiểu Arnold Schwarzenegger, một troubleshooter (người dẹp loạn) trong vụ này.
Henry Cabot Lodge đã có một chủ ý. Đó là vào thời chiến tranh lạnh căng thẳng sau Thế Chiến thứ hai, Mỹ đang đứng đàng sau một số chế độ của những nước đồng minh ở châu Âu, Á trong thế trận ngăn chận sự bành trướng của Cộng Sản trên thế giới. Ở một vài nước này đang có sự phát triển của khuynh hướng độc tài, như ở Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan, Pakistan, … Lodge đang muốn đưa ra chủ thuyết mới với nhãn hiệu Cộng Hòa: không cho phép lợi dụng sự ủng hộ của Mỹ để độc tài, vì độc tài nào cũng tệ hại, không cứ gì độc tài Cộng Sản. HCL muốn áp dụng học thuyết này ở miền nam, mà chính ông là người ra tay. Với tâm lý của một kẻ có quyền lực trong tay, đến đây là để thị uy, dẹp loạn, hầu như ông đã đóng lại tất cả những cửa thương lượng với phía ông Diệm, mặc dù thấy nguy, ông Diệm trong những ngày cuối đã tuyệt vọng tìm cách tiếp xúc với ông Lodge. Từ khi ông Lodge đến Saigon vào cuối tháng 8 đến khi ông Diệm bị ám sát, ông Lodge chỉ gặp ông Diệm hai lần - một lần là trình ủy nhiệm thư và lần thứ nhì là ngày 27-10 tại Dalat.Trong lần gặp thứ hai, cũng là lần cuối, ông Diệm phàn nàn với ông Lodge là có những nguồn tin CIA đang âm mưu lật đổ ông, và ông đại sứ trả lời: “Cho tôi bằng chứng bất cứ người nào của chính phủ Hoa Kỳ có hành động gì không phải, tôi sẽ cho người đó rời khỏi Việt Nam ngay!” (Give me proof of improper action by any employee of the U.S. government and I will see that he leaves Vietnam).
Sự lựa chọn phương án của ông Lodge là một sự lựa chọn dễ dãi, bởi vì ông có mục tiêu giới hạn, ông còn phải trở lại Washington để chuẩn bị cho cuộc tranh cử năm tới. Giải pháp hòa bình là một giải pháp khó, chắc chắn là lâu dài, và không bảo đảm thành công. Tiêu diệt chế độ Ngô Đình Diệm là một giải pháp dễ, Lucien Conein chỉ cần rút 5 triệu đồng Việt Nam, tương đương với 70.000 đô-la vào thời đó để phân phát cho các tướng lãnh! Cabot Lodge giống Trần Thủ Độ ở chỗ về sau, ông Ngô Đình Cẩn cũng chết trong tay Nguyễn Khánh.
Những người viết sử về sau này cho rằng ông Henry Cabot Lodge thường được người Việt ví như một bọc cao su vì ông phạm ít nhất hai lỗi lầm: thứ nhất, ông chia không đều phúc lợi “cách mạng” cho các tướng lãnh, ví dụ như Tôn Thất Đính được 600.000 đồng (chưa đến 10.000 đô la), mà Nguyễn Văn Thiệu chỉ được 50.000 đồng, chưa được 700 đô-la – dù rằng đô la thời đó còn lớn lắm. Bởi thế mà về sau các ông này lục đục với nhau mãi. Thứ hai, ông chẳng biết gì về những ông tướng tá thời ấy, cho nên tin rằng những chính quyền quân sự có thể làm được “trách nhiệm lịch sử”. Thời của Nguyễn Khánh trong hai năm 1964-65 chính là khúc dạo đầu của thảm họa mất nước.

Henry Kissinger, P.P.
Ông Henry Kissinger khi nhìn lại sự thất bại của chính quyền Kennedy và Johnson trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã có những kết luận sau đây, được liệt kê trong bài “điểm sách” của ông về tác phẩm “Lessons in Diaster: McGeorge Bundy and the Path to War in Vietnam”.
- Khi muốn gởi quân tham dự một cuộc chiến ở một nước nào đó trên thế giới, người ta phải có cái nhìn chiến lược một cách phân tích về tình hình ở nước đó, khu vực đó, tránh nhìn phiến diện. Ông Kissinger cho rằng ông Kennedy không nhìn thấy toàn diện bàn cờ Đông Dương và những tham vọng của Liên Xô và Trung Quốc trên đó. Nhà ngoại giao đặc trách Đông Dương Averell Harriman là người tin rằng có thể giải quyết vấn đề Ai lao riêng rẽ, và không nên lôi cuốn Cao Miên vào cuộc xung đột Đông Dương này.
- Mục đích của chiến tranh là chiến thắng, không phải là cầm cự. Bế tắc trên chiến trường sẽ dẫn đến sự sa lầy về lâu về dài. Cả Kennedy và Johnson đều sợ chiến thắng, vì e rằng sẽ lôi cuốn Liên Xô và Trung Quốc vào cuộc xung đột, mà không hiểu Liên Xô và Trung Quốc đã có mặt trong cuộc xung đột này – theo cách của họ.
- Chiến thắng cần phải được xác định là một kết quả có thể thực hiện được trong một khoảng thời gian chịu đựng được bởi dư luận của Mỹ, do đó phải tập trung sức để dứt điểm hơn là để cho nó kéo dài . Người Mỹ đã chờ quá lâu theo sức của họ, nhưng cho đến năm 1968, với biến cố Tết Mâu Thân, mục tiêu chiến thắng càng xa vời.
- Chiến trường, ngoại giao và chính trường trong nước là ba mặt liên hệ, cần được phối hợp nhịp nhàng và chủ động, sự phân công phải rõ ràng, và sự phê phán không được làm mất sự đoàn kết quốc gia, đưa đến sự tuyệt vọng.
Cũng có một điều Kissinger đã thoáng đề cập, đó là sự sai lầm của chính quyền Kennedy, khi tin dùng Cabot Lodge và để cho ông ta tiêu diệt chính quyền Ngô Đình Diệm “vào một ngày cuối tuần cả hai ông Kennedy và Bundy đều rời khỏi thủ đô, ông phụ tá bộ trưởng ngoại giao (Hilsman) cũng là một viên chức trong Hội đồng An ninh Quốc gia đưa ra một chỉ thị cho ông đại sứ tại Saigon, chỉ thị này được sử dụng để châm ngòi cho cuộc đảo chánh”. Lodge không hề có sẵn một giải pháp chính trị sau đảo chánh, cho nên mở đường cho một loạt chế độ quân nhân tiếp nối di hại cho đến ngày 30-4-1975 - bắt đầu là Dương Văn Minh, và kết thúc cũng là Dương Văn Minh, ở giữa là Nguyễn Văn Thiệu.
Nhưng Kissinger cũng là Henry, một Henry tàn bạo không kém Henry Cabot Lodge. Đúng là ông ta và chủ của ông, Tổng thống Richard Nixon, là đạo diễn của Hiệp định Hòa bình Paris 1973 đưa đến sự sụp đổ của nền Đệ nhị Cộng hòa ở miền nam vào năm 1975. Thái độ bất tín, bất nghĩa không phải chỉ một lần khi mật đàm với kẻ thù là Bắc Việt bất kể một phía mình vẫn xem là đồng minh. Cả khi đạt được một hiệp định hòa bình bằng cách chấp nhận những nhượng bộ, thua thiệt không cần thiết bất kể đến cái gọi là quyền dân tộc tự quyết của người dân miền nam. Nhưng ta không trách người. Điều đáng trách nhất, khi nhìn lại vào thời điểm này 40 năm trước miền nam tiến vào hòa đàm “hai phe, bốn bên” ở La Celle St. Cloud, là sự mê muội quyền lực đến mức khi người ta đã biết Henry Kissinger đi đêm với Lê Đức Thọ, ông Nguyễn Văn Thiệu vẫn không báo động được cho quốc dân đồng bào biết hiểm hoạ bị bán đứng. Đến khi đặt bút ký vào Hiệp định Paris bất binh đẳng, ông ta chỉ đi lo cho tay sai tổ chức một đảng Dân Chủ dởm và còn âm mưu ra thêm một nhiệm kỳ tổng thống thứ ba, thay vì tập họp toàn dân, các đảng phái, tôn giáo, chính trị, địa phương trong một trận quyết tử. “Đồng minh” Hoa Kỳ rõ ràng là không tính đến, xem như không có, chính quyền Saigon của Thiệu, hay người ta xem đó là chính quyền của mình, do mình và vì mình, cho nên không tính đến sự sống còn của nó. Ông Thiệu khôn hơn ông Diệm, ông luôn luôn sợ bị Mỹ thí, nên ông không bị thí, còn chạy được. Chỉ có nền cộng hòa của 20 triệu dân là bị thí.
Bởi thế người Việt Saigon rất phân minh. Không gọi Kissinger là tiến sĩ Kissinger. Henry Kissinger, Ph. D. Họ gọi ông là Henry Kissinger, P.P. (Political Pimp).

Keine Kommentare: