Dũng Sĩ Chống Ung Thư (The Cancer Warrior)
Trần Việt Minh Thanh
Thể theo lời yêu cầu, tvmt xin tóm tắt chương trình Nova có tựa là "Dũng sĩ chống Ung Thư". Đây là một chương trình rất hay, công phu, trình bày dữ liệu cần thiết cho những người quan tâm đến bệnh ung thư. Cám ơn bác Le Thu đã giới thiệu chương trình.
Chương trình gồm 8 phần, bắt đầu với Endostatin, một loại thuốc mới, đang trong thời kỳ thử nghiệm y tế (clinical trial), nhằm chống căn bệnh nguy hiểm và làm cho rất nhiều người sợ, bệnh Ung Thư. Nhưng chương trình không nhằm giới thiệu một loại thuốc mới, mà chính là trình bày phương thức chữa ung thư khác hẳn các phương thức hiện nay, khởi đầu từ thuyết mới của bác sĩ Judah Folkman, bệnh viện Nhi Đồng tỉnh Boston, và là giáo sư trường Y Khoa Harvard. Ông đã mất 40 năm để thuyết phục các bác sĩ đồng nghiệp về phương thức chống ung thư cúa ông, đồng thời mất nhiều năm nghiên cứu và hàng triệu đô là để tìm tòi ra cách chữa bệnh ung thư mới này.
Xin nhấn mạnh, Endostatin đang còn trong thời kỳ thử nghiệm y tế. Các cách thức chữa ung thư khác, như hoá trị, được coi là độc dược, nhưng đã và đang là phương thức chữa ung thư rất công hiệu cho rất nhiều bệnh ung thư. Đã có nhiều bệnh nhân sống lâu dài hay kéo dài cuộc sống nhờ hóa trị và quang tuyến trị liệu.
Phần I: Endostatin: Thuốc chữa bệnh ung thư đang trong thời kỳ thí nghiệm .
Sau nhiều năm trong phòng thí nghiệm, một loại thuốc mới, tên là Endostatin, với giá trị không lường được, lần đầu tiên đem ra thử nghiệm trên con người. Nếu gặt hái được kết quả tốt đẹp, thì có thể nói thuốc sẽ thay đổi cách chữa bệnh ung thư ngày nay. Không như các thuốc ung thư khác, còn bị gọi là thuốc độc (vì giết chết tế bào ung thư, cũng như tế bào lành), cho đến ngày nay chưa thấy Endostatin gây ảnh hưởng phụ nào lớn, nếu có thì cũng như thuốc aspririn mà thôi.
John Matt và Duane Gay là hai bệnh nhân được lựa để được truyền thuốc Endostatin. Hai người thuộc chương trình thử nghiệm ý tế, mà trong lịch sử y khoa được coi là chương trình hằn mong chờ nhất từ trước tới nay. Cả hai có trường hợp tương tợ về bệnh trạng. John Matt, đã thử mọi thứ cứu chữa khác (hóa trị, xạ tuyến), mà không thành công . Các bác sĩ của anh đã bó tay. Anh đã gần hết thời hạn. Trong người John Matt, bướu ung thư đang lớn dần, thuộc thời kỳ thứ tư, và đang lan rất nhanh.
Endostatin là hy vọng cuối cùng của anh, mà có chắc nó sẽ có kết quả không? Bảy ngày trong tuần John Matt lái xe 3 tiếng đồng hồ đi về, tới trung tâm điều trị Ung thư, thuộc đại học Wisconsin, và được truyền thuốc 12 liều thuốc Endostatin mỗi ngày. John Matt biết rằng anh đang sống trong thời kỳ mượn tạm, vì đáng lẽ anh đã ra đi từ mấy năm về trước. Là bệnh nhân thứ 16 tại bệnh viện ở Wisconsin, mà có rất nhiều mong mình được nhận là bệnh nhân thứ 17.
Phóng viên cho đài truyền hình, Duane Gay là khuôn mặt có tên tuổi trong cộng đồng, anh cũng bị ung thư rất nặng. Không những người ta tìm thấy nhiều bướu ung thư trong phổi anh, mà còn bị một bứu ung thư rất lớn trong lá gan nữa. Anh đã trải qua nhiều kỳ giải phẩu và nhiều tháng hóa trị. Nhưng hai phương thức này cũng không giúp được gì cho Duane, và bác sĩ cho biết ung thư vẫn tiếp tục tăng nhanh trong người anh.
Tại bệnh viện thuộc đại học Wisconsin, nhân viên điều hành Jim Thomas cho biết có tới mấy ngàn bệnh nhân xin vào chương trình thí nghiệm thuốc Endostatin, nhưng bệnh viện chỉ có thể nhận được khoảng 20 bệnh nhân mà thôi. Duane Gay được nhận vì anh hội được những điều kiện thích hợp để được điều trị thuốc Endostatin. Bướu của Duane nằm tại một chốn dễ dàng kiểm soát, và dễ rút tế bào ra để thử nghiệm (biopsy).
Ban đầu liều thuốc được truyền vào rất ít, bác sĩ thì chú trọng vào những phản ứng phụ, còn bệnh nhân chỉ mong Endostatin có thể ngưng hay làm xẹp quả bướu ung thư của họ . Phải nói các bệnh nhân rất can đảm vì các bác sĩ không biết thuốc có tác dụng gì trên cơ thể của họ như thế nào, và có hiệu quả hay không .
Mỗi bệnh nhân là một tâm sự, anh Duane Gay nói: Đây là một cuộc chiến. Kẻ thù đã lấy mất nhiều mạng sống và đã mang đến khổ đau cho gia đình các nạn nhân. Tôi cảm thấy hân hạnh và nhún mình để là 1 chiến sĩ sẳn sàng đổ bộ . Lúc này, đó là cảm xúc chân thành của tôi .
Phần II: Làm tắt nghẽn đường dẫn lương thực đến bướu Ung Thư
Thuốc Endostatin được khám phá tại bệnh viện Nhi Đồng, tỉnh Boston, trong phòng thử nghiệm của bác sĩ Judah Folkman. Đây là 1 khám phá đã qua nhiều thử thách khó khăn, và đã tốn rất nhiều công sức và thì giờ của các khoa học gia: Bốn mươi năm của khoa học phức tạp đã thay đổi sự hiểu biết của y khoa về phương cách ung thư làm việc .
Bác sĩ Everett Kop, cũng là y sĩ toàn quốc (thập niên 80) nói: Khám phá này sẽ đi vào lịch sử y khoa như là một tác động mạnh vào phương thức con người hiểu bệnh ung thư, và là một phương cách rất thực dụng trên đời sống của bệnh nhân . Nhưng ban đầu ý tưởng của B.Sĩ Folkman đã bị chống đối và chỉ trích nặng nề. Các khoa học gia đồng nghiệp đã nghi ngờ khi B.S Judah Folkman trình bày thuyết mới về bệnh ung thư của ông, vì nó khác hẳn phương thức mà các bác sĩ đang chữa ung thư. B.S Folkman muốn tìm hiểu bí mật sâu xa mà bệnh ung thư đã gây ra.
Từ trước tới nay, chữa bệnh ung thư chính gồm giải phẩu, hóa trị, và quang tuyến trị liệu (radiation). Hóa trị (chemotherapy) là những liều thuốc rất mạnh, có tính cách độc dược làm hại những phần lành mạnh khác của cơ thể con người. Nhiều liều thuốc phát sinh từ hơi độc của thời Đệ Nhất thế chiến, rất độc hại cho các tế bào, và có những phản ứng phụ như rụng tóc, làm cho hệ thống miễn nhiễm của con người bị ảnh hưởng nặng, ngoài ra còn tác động đến đường ruột của cơ thể. Hoá trị còn ảnh hưởng đến kháng thể của nhiều loại thuốc, làm các tế bào biến đổi, và bỗng nhiên cự lại các thuốc trước đây hiệu nghiệm cho cơ thể người đó .
Thuốc Endostatin không tấn công vào các tế bào ung thư, mà nó lại đi kiếm các tế bào lành, những tế bào nuôi dưỡng bướu ung thư, có tác động làm cho bướu ung thư tăng trưởng, và Endostatin sẽ chận đứng các tế bào đó.
Làm tắt nghẽn đường dẫn lương thực tới bướu Ung thư . Ấy chính là ý kiến cách mạng của bác sĩ Folkman. Ý kiến này bắt nguồn từ năm 1961, khi chính phủ Hoa Kỳ giới thiệu một hàng không mẫu hạm nguyên tử đầu tiên có thể ra khơi trong thời gian dài tới mấy tháng, nhưng thời ấy máu chỉ có thể dự trữ trong vòng ba tuần mà thôi. Hải quân đã tuyển mộ được một bác sĩ giải phẩu trẻ, tên là Judah Folkman trong công việc tìm kiếm cách lưu trữ lượng máu lâu dài hơn.
Công việc của bác sĩ Folkman là làm đông lại hồng huyết cầu, rồi khi cần chỉ cần làm sống lại các tế bào máu. Cùng với đồng nghiệp, B.S. Fred Becker, B.S. Judah Folkman đã cấu tạo một hệ thống giả, tương tự như cơ quan lưu thông của con người, và đính vào đó tuyến giáp của con thỏ. Khi hệ thống được mở ra, máu bắt đầu lưu thông, và tuyến giáp phát triển.
Tiếp theo, B.S. Folkman muốn lượng máu đó, khg những có thể trợ lực cho cơ quan cần tiếp máu, mà còn có thể từ cơ quan đó, giúp các cơ quan khác phát triển. B.S. Folkman dùng một tế bào phát triển rất nhanh, đó là tế bào ung thư lấy từ 1 con chuột Và rồi các bướu đen từ từ thoát ra ngoài giáp tuyến, và rồi các bướu này đã làm 1 điều mà từ trước tới nay chưa xảy ra. Chúng ngừng phát triển.
Lấy làm lạ, B.S. Folkman bèn bỏ tuyến giáp đó trở lại vào cơ thể con chuột, nhưng khi về lại cơ thể con chuột, thì các tế bào đó sống lại . Tại sao các bướu đó lại sống mạnh mẽ trong cơ thể con chuột, mà lại ngưng sống trong tuyến giáp? Dưới ống kính hiển vi, bác sĩ Folkman chỉ thấy một điểm khác biệt: Trong cơ thể con chuột, nhiều mạch máu đến nuôi dưỡng cái bướu, còn trong tuyến giáp thì khg thấy mạch máu nào cả.
Có nghĩa là các mạch máu đã đóng 1 vai trò nào trong sự phát triển của ung thư? B.S. Folkman cảm thấy là ông đã kiếm ra 1 điều quan trọng nào đó, nhưng không ngờ phải mất 30 năm để ông hiểu được cách thức mà các bướu đã kiếm được máu để nuôi dưỡng và phát triển chúng.
Sau thời gian phục vụ cho hải quân, bác sĩ Folkman trở lại tiếp tục thực tập trong ngành giải phẩu. Tài năng của ông trong nghề là một huyền thoại . Chỉ có 5 năm thôi, ông đã có tiếng là 1 bác sĩ giải phẩu trẻ nhất, được đề cử chức vụ Y Sĩ Trưởng tại Bệnh Viện Nhi Đồng. Có điều B.S. Folkman, chưa được huấn luyện trong ngành Nhi Khoa. Trường đại học Y Khoa Harvard gởi B.S. Folkman tới huấn luyện dưới quyền của 1 vị bác sĩ rất nổi tiếng, đó là bác sĩ Everett Koop. B.S. Koop cho biết, thông thường cũng phải mất 2 năm để hoàn tất chương trình huấn luyện, nhưng với bác sĩ Folkman, chỉ mất 6 tháng mà thôi. Tuy được trọng vọng trong ngành giải phẩu, B.S. Folkman không thể nào quên vụ cái bướu thời ông còn trong hải quân và mỗi lần ông cắt đi 1 cái bướu và thấy mạch máu (bám đầy quanh bướu), ông lại thắc mắc không hiểu đó có phải là chìa khóa cho sự phát triển của ung thư khg .
Cuối thập niên 1960, B.S. Folkman bỏ rất nhiều thì giờ trong phòng thí nghiệm. Ông đang phát triển một thuyết mới về ung thư. Ông gọi đó là angiogenesis, - 1 từ đã cũ. Angio có nghĩa là máu, genesis: hình thành, angiogenesis: sự cấu tạo của máu. Ông tin rằng 1 cái bướu không thể tăng hơn đầu của 1 cái kim, nếu không có lượng máu, và ông cũng nghĩ rằng cái bướu đã tiết ra 1 yếu tố bí mật nào đó để kích thích sự hình thành của các mạch máu, hầu giúp nuôi dưỡng và làm cho cái bướu tăng trưởng .
Với ý tưởng mới mẻ này, B.S. Folkman đã bị các đồng nghiệp nghi ngờ và chống đối. Khoa học tin rằng sự bí mật của ung thư nằm trong chính tế bào ung thư, chỉ có bác sĩ Folkman là đi tìm hiểu về các mạch máu nuôi dưỡng nó. Trong ngành vật lý tế bào, các nhà khoa học gia đã tìm hiểu tế bào, những chromosone, những gene đã tạo nên ung thư, chứ không phải các mạch máu. Mạch máu là cơ quan đem dưỡng khí và chất bổ lưởng vào cơ thể, cũng như đẩy những phế thải ra ngoài .
Ngoài ra, B.S. Folkman là một bác sĩ giải phẩu, được giáo dục và huấn luyện để cắt các bướu ra chữ không phải là bác sĩ được huấn luyện để tìm hiểu tế bào, lý tính của tế bào, và các phương cách mà tế bào phát triển. Một nhà khoa học gia, nghiên cứu bệnh học đã tuyên bố: Angiogenesis chỉ là một sự bốc cháy nhất thời mà thôi.
Phần III: Sự Hoạt Động của Các Mạch Máu Cho Tế Bào Ung Thư (Angegionesis In Action)
Nhưng B.S. Folkman là một người có lòng quyết chí mạnh mẽ . Từ lúc còn nhỏ ông đã 1 lòng đam mê với ngành y khoa. Kinh nghiệm là bác sĩ giải phẩu cho ông càng tin tưởng về thuyết các mạch máu của mình. Không như các bác sĩ chuyên về nghiên cứu, ông đã trông thấy và cầm trên tay những bướu ung thư còn nóng và đầy máu, vì thế để trả lời các lời chỉ trích, B.S. Folkman nói: Bởi vì quý vị không thấy mạch máu nơi các bướu ung thư. Tôi biết họ (các bác sĩ nghiên cứu) chỉ nhìn thấy các bướu này đã được lấy ra khỏi cơ thể, máu đã được chùi sạch, chúng chỉ là các mẫu sẳn sàng để được nghiên cứu, thí nghiệm.
Chỉ còn một cách để các đồng nghiệp hết nghi ngờ. B.S. bắt đầu làm những thí nghiệm riêng để chứng minh là sự hình thành của máu giúp cho bướu tăng trưởng là một điều có thật! Thử nghiệm này sẽ là điểm khởi đầu thay đổi nhiều tư tưởng.
Giác mạn mắt là một vòm trong che con ngươi. Không thể có mạch máu nơi vòm mắt. Cùng với B.S. Michael Gimbrone, B.S. Folkman đã bỏ vào 1 cái bướu bé tí ngay giữa vòm mắt của 1 con thỏ. Sau vài ngày, nhiều mạch máu đã nổi lên quanh viền con ngươi, và chúng chạy thẳng vào cái bướu như bị nam châm hút. Rõ ràng đây là sự cấu tạo của máu đang hoạt động.
Các tia máu bắn ra, và khi chúng tới gần cái bướu, các tế bào bướu tăng trưởng chung quanh bướu, và cái bướu lớn dần hơn. Trong vòng 2 tuần, cái bướu đã tăng tới 16, 000 lần dạng nguyên thủy . Khi người ta cắt bỏ bướu đi, thì các mạch máu rút lại và dần biến mất. Tuy vậy, điều này vẫn chưa thuyết phục được các khoa học gia. Câu hỏi kế tiếp là: cơ cấu nào đã tạo nên sự hình thành của máu, nhất là yếu tố mà bưóu ung thư đã lôi kéo được sự cấu tạo của mạch máu.
Công cuộc tìm kiếm yếu tố đã kích thích sự tăng trưởng của mạch máu, bắt đầu từ cái bướu, và từ phòng thí nghiệm chuột. Phân tử mà họ tìm kiếm có lẽ từ một chất đạm, nhưng kiếm ra được phải nói đến lòng nhiệt tình của 2 nhà nghiên cứu tại phân khoa của BS. Folkman: Yuen Shing và Michael Klagsbrun.
Thân thể con người có tới ngàn chất đạm, và điểm khó khăn là làm sao tách 1 phân tử ra khối đông phân tử. Thanh lọc và phân tách là một công việc rất tỉ mỉ trong khoa học. Bướu được xây thành 1 chất lỏng, được bỏ vào 1 cái ly có các chất liệu có thể thu hút một vài phân tử. Từ một cái ống, các chất đạm rơi rớt từng giọt, chất đạm lớn rơi ra trước, các chất đạm nhỏ rơi sau, chất bé tí nhất rớt rơi cuối cùng .
Mỗi ống thử nghiệm giờ đây bớt có 1 số chất đạm, và trong đó có phân tử mà bạn muốn tìm kiếm, tất nhiên có ống không có . Giờ đây phải thử nghiệm cái nào kích thích mạch máu phát triển, cái nào không. Hai nhà nghiên cứu đã chia các phân tử theo dạng, sức nặng, lực điện tử, từng giọt một. Thật là một công trình khoa học kéo dài hàng tuần, tháng, rồi nhiều năm trôi qua.
Có nhiều phân tử rất khó thanh lọc, tỉ dụ như Interferon, phải mất 17 năm mới lọc được phân tử này . Cuộc nghiên cứu kéo dài 10 năm, đến cả BS Folkman cũng mất cả kiên nhẫn. B.S. Folkman không biết phải nên kiên trì, hay bỏ dở . Khó mà biết được phải kéo dài bao lâu, và sự kéo dài có mang lại kết quả gì không . Nếu giữ mãi 1 ý tưởng có thể bị cho là cứng đầu, không đi đến đâu . Rồi 1 ngày nọ, nghiên cứu gia Klagsburn and Shing thử 1 chất liệu gọi là "heparin", khi họ bỏ vào, 1 chất đạm dính vào chất heparin như keo . Có thể đây là phân tử mà họ tìm kiếm chăng? Họ thử vào con ngươi, chỉ trong vòng vài giây, mạch máu chạy ào đến. Đúng rồi! Thử nghiệm hóa học này đã chứng minh là bướu có thể tiết ra 1 phân tử thu hút các mạch máu.
Chẳng mấy chốc, mà những người trước đây đã chỉ trích phương thức của bác sĩ Folkman, bỗng nhiên biến thành đồng nghiệp cùng cạnh tranh tìm kiếm phân tử . Lúc đầu là 1 phân tử, đến ngày nay khoa học đã kiếm ra được 17 phân tử.
Tìm kiếm phân tử đã kích thích sự cấu tạo của mạch máu mới chứng minh angiogenesis có thật, nhưng BS Folkman chưa băng lòng. Ông muốn kiếm 1 phân tử làm công việc ngược lại: cản trở mạch máu đừng tăng trưởng, như vậy là có thể kiếm được 1 đường lối khác để chữa trị ung thư.
Phần IV: Ngăn Chặn Cấu Tạo Của Máu (Preventing Angegionesis)
Vậy, mục đích của bác sĩ Folkman là tìm 1 cái gì đó để ngăn chận các mạch máu ngưng tăng trưởng. Điều khó khăn là họ không biết phải kiếm ra làm sao, dù họ gọi nó là "angiogenesis inhibitors" (Ức chế sự cấu tạo của máu), mà thật sự đó chỉ là tên gọi, mà "nó" chưa hiện hữu.
Giữa thập niên 70, lúc khởi đầu công việc tìm kiếm, các sinh viên hậu bác sĩ đã cắt hàng trăm ký tủy xương bò. Theo B.S. Folkman thì tủy xương là nơi có thể có phân tử này và trách nhiêm của Bob Langer, thuộc đại học MIT, là kiếm cho ra phân tử đó. Chính ra vào trong thời kỳ phôi thai của sụn xương, thì chúng có mạch máu, nhưng mỗi khi đã lớn hơn, thì mạch máu không còn nơi sụn nữa. Suy ra, sụn hay tế bào sụn đã làm cho mạch máu biến mất. Bob Langer đã dùng hóa học để tách các sụn ra, từ đó các phân tử có chất đạm được thoát ra. Công cuộc tìm kiếm phân tử ức chế angiogenesis bắt đầu!
Như mò kim dưới đáy biển, cuộc thử nghiệm khó khăn, tỉ mỉ, chia các phân tử từng cột, thanh lọc và thử nghiệm chúng. Nhưng lần này là để kiếm phân tử có tác động ngưng sự cấu tạo của mạch máu. Họ nhỏ vào con ngươi nơi gần các mạch máu chất sụn có chất kích thích mạch máu. Nếu mạch máu tăng trưởng chạy vào sụn, tất nhiên sụn đó không có chất ức chế, nhưng nếu sụn có chất ức chế, thì máu sẽ ngưng tăng trưởng. Kết quả là họ có tìm thấy chất sụn có chất ức chế, nhưng mỗi sụn có hàng ngàn phân tử và điều khó là phải thanh lọc các phân tử, mới biết phân tử nào là phân tử ức chế angiogenesis.
Cuộc thử nghiệm của khoa học cũng đến tình cờ như mọi việc trong đời con người. Điều may mắn đến khi Don Ingber, 1 nghiên cứu viên, gia nhập nhóm thí nghiệm của B.S. Folkman để tìm hiểu vai trò của tế bào máu. Một hôm Don ngạc nhiên thấy có 1 nấm bị nhiễm trùng đã tăng trưởng bất thường, thay vì mọc đều đặn như các tế bào khác. Các mạch máu bình thường phải nằm dài để tăng trưởng, nhưng các tế bào của nấm nhiễm trùng này mọc vòng, và rồi chết, tuy vậy chỉ có những tế bào gần chỗ nấm mới bị ảnh hưởng, còn các nơi xa hơn thì nó lại mọc thẳng và trở lại bình thường. Theo luật thí nghiệm, lúc đang cấy vi khuẩn mà bị nhiễm phải nấm, thì phải vứt các nấm đó đi, nhưng Don Ingber, với ý nghĩ rằng cái nấm này có 1 thứ gì bí ẩn, hình như nó có thể điều khiển các hình dạng, các sụn tế bào, và sự tăng trưởng của sụn, thế ông giữ lại các nấm đó lại.
Phải mất vài tháng sau, ông mới nói chuyện với B.S. Folkman. Hai người đi xem con vi khuẩn, và đúng như Don Ingber nghi ngờ trong cái đĩa con con, con vi khuẩn đó đã chận đứng angiogenesis. Và sau đó đã trở thành thuốc thí nghiệm, tên là TNP-470. Thuốc này có thể chận đứng bướu trong con chuột khoảng 67%. Thật là một kết quả khả quan, nhưng B.S. Folkman chưa bằng lòng, ông muốn kiếm ra 1 thuốc có kết quả tốt hơn.
Phần V: Cách Xử Dụng Mới cho Loại Thuốc Cũ
Cuộc tìm kiếm phân tử ức chế sự cấu tạo của mạch máu tiếp tục, nhưng vẫn chưa có một thuyết rõ ràng để hướng dẫn các nghiên cứu gia.
Rồi Robert D'Amoto, 1 hậu tiến sĩ, quyết định thử một cách khác. Thay vì tìm kiếm 1 chất liệu mới, ông lục lại những thuốc đã được sản xuất, với ý nghĩ: Có thể có 1 loại thuốc đã được bào chế cho 1 mục đích khác, mà thuốc này đã chận đứng sự tăng trưởng của mạch máu, như là 1 phản ứng phụ.
Từ ý nghĩ đó B.S. Roberto (Bệnh viện Nhi Đông/ trường Y Khoa Harvard) đã tự hỏi: "Trong thân thể con người những thành phần nào cần các mạch máu?" Có nghĩa là nếu không có máu, phần thân thể đó sẽ héo mòn đi. Đầu tiên, ông nghĩ đến sự rụng tóc (alopecia), do các mạch máu khg còn dẫn đến mạch tóc nữa, nhưng nhiều thuốc đã làm rụng tóc mà không có liên quan gì đến sự tăng trưởng của mạch máu. Ông kiểm sao từng bộ phận trong thân thể của mình mà không nghĩ ra điều gì cả. Bỗng nhiên 1 ý nghĩ tuôn ra: Tôi chỉ nhìn trên phương diện đàn ông mà khg nghĩ gì theo phương diện phụ nữ. Nếu là 1 nữ khoa học gia, cô sẽ nói: kinh kỳ tôi sẽ ngưng. Rồi ông ta nhớ đến các khoảng thời kỳ trong cuộc đời người đàn bà, khi sự tăng trưởng của máu là quan trọng: Đó là thời gian người đàn bà có bầu. Nếu 1 phụ nữ đang có bầu mà uống thuốc ngưng cho máu tăng trưởng, thì đứa bé sẽ ra đời với tật nguyền. Thế là ông lục các thuốc còn gọi là độc dược, từ xưa đã gây nên tật nguyền nếu dùng trong lúc thai nghén. Sáu thứ thuốc hiện ra trên màn ảnh (điện toán), và 1 thuốc đã làm cho ông rùng mình - Đó là thalidomide.
Vào thập niên 60, thalidomide được các bác sĩ ở Âu Châu kê toa cho các phụ nữ đang có thai, mục đích giúp chống nôn mữa. Kết quả thật là khủng khiếp, cả ngàn đứa trẻ ra đời bị tật nặng nề. Chẳng nhẽ thuốc ghê rợn này lại có thể dùng được để chữa ung thư? Bác sĩ Robert D'Amato gởi thuốc đến để thử nghiệm.
Lúc bấy giờ, phòng thí nghiệm của B.S. Folkman đã chế ra một phương thức thử nghiệm mới cho angiogenesis: dùng trứng gà đang thụ thai. Trứng thì có nhiều, rất rẻ và thử nghiệm lại rất mau. Quả trứng được mở ra cẩn thận để tránh ảnh hưởng đến bào thai, mà lúc này còn tí ti, chỉ là 1 hệ thống tuần hoàn. Sau hai ngày trong lồng nuôi, trứng gà đã sẳn sàng đế thử nghiệm. Chất liệu có nhỏ thalidomide được bỏ vào quả trứng. Thử nghiệm đầu tiên thấy mạch máu vẫn tăng trưởng với thuốc thalidomide. Nhưng sau đó Robert nhớ 1 điều quan trọng: Để cho thuốc thalidomide hoạt động tích cực, thuốc phải được dùng bởi thân thể. Robert thử lại với thalidomine đã được metabolized, và kết quả là mạch máu đã tránh nơi có thuốc và nó chỉ tăng trưởng chung quanh đó. Vậy là thuốc thalidomide có tác dụng ngăn chận sự cấu tạo của mạch máu. Vì thuốc đã co’ mặt trong ngành rồi, cho nên thuốc được đưa ngay vào thử nghiệm y tế (clinical trial, chữ VN dùng hiện nay là lâm sàng).
Năm 1997 tại trung tâm nghiên cứu ung thư Arkansas, B.S. Bart Barlogie là vị y sĩ đầu tiên thử thalidomide cho bệnh nhân ung thư. Ông là bác sĩ chuyên môn về 1 bệnh ung thư gọi là multiple myeloma (về tủy xương). Đây là 1 bệnh mà cách chữa trị còn rất khan hiếm. Anh Tim Dawson, 40 tuổi, với con cái con bé nhỏ, đã thử mọi liều thuốc mà không có kết quả. Anh đã trải qua hai cách chữa cho myeloma - hóa trị và thay tủy xương. Bác sĩ Barlogie đề nghị thử thuốc thalidomide. Thật sự lúc đó anh Tim cũng chưa hề nghe đến cái tên thalidomide, anh không biết đây là loại thuốc đã gây ra tật nguyền cho trẻ em còn trong bụng mẹ. Về sau được biết rồi, thì anh lại không hiểu làm sao nó có thể chữa được bệnh ung thư của anh.
Nhưng anh Tim không còn có sự lựa chọn nào hơn. Anh bắt đầu uống liều mạnh nhất: 16 viên thalidomide mỗi ngày. Bốn tuần sau anh tới cho bác sĩ Barlogie khám lại, và bác sĩ thấy sức khoẻ anh không đến nỗi tệ. Rồi người ta khám máu anh. Hồng huyết cầu cao. B.S. tưởng anh vừa mới được chuyền máu. Không phải thế. Các huyết cầu của anh đều bình thường . Đó là thật 1 điều đáng ngạc nhiên cho người đã chống bệnh này bằng mọi cách, và nay nhờ 1 viên thuốc có thành tích xấu, sức khoẻ anh khá hơn, nó lại không gây ảnh hưởng phụ gì lớn. Tim được liệt vào thời kỳ thuyên giảm (remission) được một năm rồi, và anh vẫn còn uống thalidomide. Sau 1 thời gian, thuốc cũng có gây tí ảnh hưởng phụ. Anh mau chóng mệt mỏi, đầu ngón tay và chân cái của anh bị tê. Không phải ai cũng dùng thuốc thalidomide có kết quả như với Tim! Mà trong trường hợp Tim, thì anh rất đỗi sung sướng. Anh hoạt động bình thường trong nhiều lãnh vực, mà nếu không có thalidomide thì anh không thể làm gì được. "Tôi không biết giờ đây tôi ra sao, nếu tôi không uống thuốc này!" anh Tim giải bày tâm sự.
Phần VI: Làm cách nào mà Ung thư lan ra - Sự Di Căn của Ung thư
Trở lại với bác sĩ Folkman. Trước khi đạt được kết quả đầy hứa hẹn như trường hợp thuốc thalidomide, quả là một điều khó khăn cho B.S. Folkman, vì ông phải chọn một trong hai ngành: Giải phẫu hoặc nghiên cứu. Cuối cùng ông đã chọn nghiên cứu. Tuy vậy quá trình giải phẫu là kinh nghiệm quý giá, nhất là với loại ung thư đang lan ra trong cơ thể bệnh nhân (di căn).
Phải hiểu rằng các tế bào ung thư nguy hiểm vì chúng không nằm tại 1 nơi. Tế bào tuyến giáp (thyroid), tế bào gan không lang thang tới các nơi khác trong cơ thể. Mỗi khi chúng vào lượng cung cấp máu và bắt đầu lưu thông thì chúng sẽ chết. Ngược lại tế bào ung thư chạy khắp nơi, một cái bướu ung thư bằng viên bi có thể nhả ra 1 triệu tế bào ung thư mỗi ngày, và nhiều tế bào đã sống trong cuộc hành trình dài, đi từ vú đến phổi, đến gan vvv. Tế bào ung thư có thế vào hệ thống máu, sống ở đó, và rồi lại đi ra từ óc, phổi và tăng trưởng trở lại. Tỷ dụ nếu 1 bệnh nhân có nhiều bướu trong gan, và nếu các bướu đều tăng trưởng, thì chẳng mấy chốc cả buồng gan bị thay bởi tế bào ung thư và không còn có thể làm việc được nữa. Có khi sự di căn này nằm vào vị trí mới, và nếu chúng không gọi được lượng máu thì chúng không lớn, nhưng mà chúng chưa chết, chúng chỉ đang ở trạng thái ngủ. Đến lúc nào các bướu ấy thức dậy thì khoa học không biết rõ, nhưng có 1 trường hợp làm bướu thức giấc: Đó là lúc bướu chính bị cắt bỏ đi, thì bỗng nhiên ti’nh ca’ch di căn được đánh thức, các mạch máu mới xuất hiện giúp cho bướu ung thư lan đi nhanh. Điều đó chỉ xảy ra trong 1 số trường hợp bệnh nhân mà thôi, nhưng đã làm cho nhiều bác sĩ giải phẩu điên đầu từ cả thế kỷ nay. Người ta thường đổ lỗi cho các bác sĩ giải phẩu - có thể vị bác sĩ này đã làm động đến vết thương – hay phải có những yếu tố nào đó.
Phải chăng đó là lỗi bác sĩ giải phẩu hay có yếu tố nào khác hơn mà bướu ung thư đang ngủ, và chỉ thức dậy khi cái bướu chính bị cắt bỏ? Điểm bí mật này được hé mở trong 1 trường hợp tình cờ, giúp cho B.S. Folkman có câu giải đáp.
Một hôm, bà Noël Bouck của trường y khoa, đại học Northwestern tới dự 1 buổi họp về ung thư. Hôm đó bà mang giày mới, vì thế chân bị bỏng đau. Bà đi kiếm1 phòng trống ngồi dưỡng chân. Mọi người bước vào phòng, và vì lịch sự bà không thể đi ra. Phòng ấy là nơi B.S. Judah Folkman sẽ làm 1 thuyết trình về angiogenesis. Mấy năm trong ngành nghiên cứu về ung thư mà bà Noel không hề nghe nói đến B.S. Folkman và thuyết ung thư cần mạch máu để sống. Sau buổi thuyết trình, bà nhận thấy B.S. Folkman có lý. Trở về, bà chuyển từ nghiên cứu về gen của ung thư qua angiogenesis. Hai năm sau, B.S. Folkman ngồi đọc sách báo với vợ, và trong tờ báo Y khoa ông đã đọc được bài nghiên cứu của bà Noel Bouck. Bà đã khám phá ra 1 điều rất lý thú.
Các tế bào bình thường tiết ra chất ức chế để máu khỏi cấu tạo tức angiogenesis. (Trong video đó là 1 chất được tô vàng). Chất ức chế này thuộc vào cơ thể, thuộc thiên nhiên để chống bệnh tật. Nó giúp giữ các mạch máu trong cơ thể nằm im lặng (tức không sanh sản). Nhưng khi các tế bào bình thường này biến thành tế bào ung thư thì có hai điều xảy ra: Trước hết, chúng bắt đầu sản xuất các kích thích mạch máu, đó là tế bào màu xanh dương, cùng lúc chúng giảm đi những ức chế mà thường chúng hay sản xuất. Đó là sự quân bình của các hoá chất, khi chất kích thích phải lấn áp chất ức chế, để cho các mạch máu có thể tăng trưởng .
Có điều bác sĩ Folkman không hiểu là tại sao tế bào ung thư vẫn tiếp tục tạo nên chất ức chế cho mạch máu ? Câu hỏi này ám ảnh B.S. Folkman hàng ngày trong mấy tháng liên tiếp, cho đến một sáng tháng 9, nhằm ngày lễ Yom Kippur của Do Thái, và bỗng nhiên mọi chuyện trở nên sáng tỏ .
Vào lúc 10 giờ sáng đó, giờ Boston, trong giáo đường Do Thái, B.S. Folkman bỗng hiểu tính cách di căn của ung thư, một bí mật lâu đời của thế kỷ. Khi bướu ung thư chính đang còn tại chỗ, nó sản xuất 1 ít ức chế, chất màu vàng, nhưng không đủ để chế ngự chất màu xanh kích thích. Nhưng chất ức chế đó cũng đủ vững để tồn tại cuộc hành trình dài qua dòng máu, hay những vụ di căn nhỏ, ngăn cản chúng kêu gọi các mạch máu mới. Đến khi bướu ung thư chính bị lấy đi, thì chất ức chế này cũng bị lấy ra khỏi nguồn nguyên thủy. Lúc này tính cách di căn của bướu ung thư tự do làm việc của nó, nghĩa là kêu gọi máu cung cấp thêm để ung thư tăng trưởng .
Thật là một điều rõ ràng đối với B.S. Folkman, là chất ức chế mà ông đang tìm kiếm từ hai chục năm nay, nằm trong chính cái bướu chính. Bấy giờ ông phải truyền nguồn cảm hứng đó cho đồng nghiệp và các học trò để kiếm ra nó.
Phần VII: Tìm Kiếm Chất Ức Chế Mới
Mặc lời thuyết phục của B.S. Folkman rằng cuộc thử nghiệm sắp tới sẽ đầy hứa hẹn, nhưng năm 1990, rồi 1991 qua đi, chẳng một ai chịu bắt tay vào việc cả. Cho đến tháng 7, 1991, thì Michael O'Reilly gia nhập phòng thí nghiệm. Lúc bấy giờ O'Reilly cũng chẳng biết rõ ràng mình phải làm việc cái gì. Thế rồi Michael bắt đầu với bướu ung thư của con chuột.
Sau khi xây nhiễn cái bướu để qua các kỳ thí nghiệm thì các chất kích thích được nhận diện dễ dàng. Tuy vây, có quá nhiều chất đạm, thật khó mà phân biệt chất đạm nào là chất ức chế angiogenesis. Michael bèn nghĩ đến những nơi khác ít chất đạm hơn, may ra dễ tìm thấy chất ức chế từ đó, và chỉ có lúc cơ thể phế thải những chất không dùng tới, là nơi ít chất đạm và đó là nước tiểu. Điểm khó khăn là 1 con chuột chỉ có thể tiểu 1 cc một ngày, mà cuộc thử nghiệm thì cần 1 số lượng lớn nước tiểu. Michael O'Reilly bèn thiết kế cho các chuồng chuột nằm cạnh nhau, và đục 1 cái phểu để hứng nước tiểu vào 1 chai lớn. Rồi ông cho chúng uống nước đường vì chúng rất chuộng loại nước này, thế là chúng đi tiểu tối ngày.
Sau công việc lấy nước tiểu, lại phải qua thời kỳ thanh lọc từng phân tử chất đạm, để tìm kiếm chất ức chế angiogenesis. Cuộc nghiên cứu tỉ mỉ bắt đầu từng cột, từng cột một, từng giọt, từng giọt một, từng quả trứng này qua quả trứng nọ . Phải mất hơn hai năm các nhà khoa học gia mới kiếm ra phân tử mà họ đợi chờ.
Họ gọi chất đó là Angiostatin. Angio = mạch máu, statin = ngưng lại . Với phân tử đã được nhận diện, đã đến lúc làm thí nghiệm cuối cùng, chữa ung thư. Có thể phân tử đạm này giúp cho bướu ung thư nằm ngủ, không di căn trong cơ thể chăng?
Michael dùng 20 con chuột có loại ung thư đặc biệt nằm trên lưng, mà ông biết rằng nó đã bắt đầu có triệu chứng lan vào phổi, nhưng bướu ung thư chính còn ở nguyên gốc thì tính cách di căn này cũng vẫn còn đứng yên, chưa lan mạnh. Ông bèn cắt cục bướu chính ra, và chia ra 2 nhóm chuột, 1 nhóm được chích lượng angiostatin hàng ngày vào, và nhóm kia thì không. Rồi họ ngồi trông chừng tình trạng của các con chuột. Nếu con chuột nào coi bệnh quá, thì họ ngưng chích thuốc.
Ngày mỗ các con chuột, B.S. Folkman đã gọi tất cả những người làm trong phòng thí nghiệm lúc bấy giờ để chứng kiến, vì có thể đây là điểm lịch sử của y khoa. Michael bắt đầu mỗ con chuột có thuốc angiostatin . Phổi con chuột trông mạnh khoẻ, ung thư không bị lan tới. Rồi họ mỗ con chuột không được chữa thuốc. Điểm khác biệt thật rõ ràng! Phổi con chuột đầy máu, nặng nề vì đầy bướu ung thư. Michael mỗ 20 con chuột, và sự tương quan trông thấy rõ. 10 con chuột có thuốc angiostatin không bị ung thư lan ra. Qua nhiều năm tìm kiếm, angiostatin là 1 chất chống tăng trưởng ung thư có kết quả nhất từ trước tới nay.
Một năm sau Michael lại kiếm ra thêm 1 chất ức chế sự cấu tạo của máu nữa, và gọi là Endostatin.
Bás sĩ Folkman nói: Nhiều cuộc nghiên cứu đưa đến thất bại. Các nhà nghiên cứu có khi mất hàng nhiều năm. Rồi đôi khi cuộc tìm kiếm đưa đến khám phá vĩ đãi, và rồi họ mới suy ra rằng lần đầu trong đời, tôi biết được điều mà trong lịch sử loài người chưa ai biết đến. Tôi đã hiểu phương cách mà thiên nhiên hoạt động. Điều đó không xảy ra cho nhiều khoa học gia. Nếu nó xảy ra thật là một phước lớn. Và nếu nó xảy ra hơn hai lần, thật là 1 điều kỳ diệu. Lúc nó xảy ra đúng là tuyệt đỉnh!
Phần VIII: Thử Nghiệm Bệnh Lý Trị Liệu (Clinical Trial)
Phải mất 4 năm nữa, thử nghiệm qua các con vật, thuốc Endostatin mới sẵn sàng để thử vào con người. Nhưng chuyển từ vật sang con người vẫn còn là 1 điều bấp bênh trong việc phát triển thành thuốc.
Trở lại trường hợp hai bệnh nhân, John Matt và Duane Gay. Chỉ sau 6 tuần uống thuốc, John Matt đã được lấy ra cuộc thử nghiệm. Ung thư của anh vẫn lan, và nhiều biến chứng xảy ra. Bốn tháng sau anh qua đời tại nhà riêng, có gia đình bên cạnh. Nhưng những gì anh để lại cho khoa học thì còn tồn tại mãi mãi.
Giai đoạn thử nghiệm đầu phát sinh nhiều câu hỏi: Phải chăng ung thư cúa các bệnh nhân này đã vào thời kỳ cuối cùng? Hay loại ung thư này không thể sử dụng thuốc đó được? Liều thuốc Endostatin chưa đủ chăng, có nên cho liều thuốc lớn hơn không . Hay là cho vào cơ thể bằng cách khác?
Vậy là các bác sĩ phải trở về nhìn những các manh mối mà các bệnh nhân đầu đã để lại, và từ đó tìm ra liều thuốc và phương cách có kết quả tốt đẹp hơn.
Với trường hợp của Duane Gay, thì anh đã vào cuộc thí nghiệm được nửa năm. Đã đến lúc xét coi anh có thể tiếp tục cuộc chữa trị nữa chăng. Thời gian này đối với Duane bao giờ cùng làm anh hồi hộp, lo âu.
Qua các hình chụp quang tuyến, bác sĩ Thomas cho biết các bướu nhỏ trong người anh ngưng tăng trưởng, tuy không nhỏ lại . Chỉ có 1 bướu lớn thì hơi to ra, và không có bướu mới. Bác sĩ quyết định cho anh uống tiếp thuốc Endostatin thêm 8 tuần nữa .
Đối với bệnh nhân như Duane, tình trạng ổn định như vậy là 1 chiến thắng lớn. Thế là với niềm hy vọng tràn đầy, Duane cùng vợ, dọn vào nhà mà họ hằng mơ ước. Năm đó, họ đã có cùng nhau hưởng một giáng sinh mà họ tưởng khg bao giờ có được.
Kinh nghiệm của trường hợp Duane cho thấy Endostatin tượng trưng cho bước đầu để các y sĩ thay đổi cách chữa trị ung thư.
Theo B.S. Don Ingber thì Endostatin mở đường cho tương lai chế ngự bệnh ung thư, thay vì chữa trị dứt căn bệnh này. Tựa như bệnh ho lao mấy năm về trước, chưa là 1 cách chữa trị, dứt hẳn bệnh ung thư, nhưng chúng ta có thể kiềm chế nó. Rồi thêm vài năm nữa, khoa học tiến bộ thêm, căn bệnh chỉ là một phần nhỏ trong đời sống chúng ta, chứ không còn là nỗi lo sợ lớn nữa.
Ngày nay ngoài Endostatin, có khoảng 20 chục thứ thuốc đang trong thời kỳ thử nghiệm y tế, các thuốc này có tính cách ức chế sự cấu tạo của mạch máu. Người ta bắt đầu thử vào các bệnh khác nữa, ngoài bệnh ung thư ra.
Bác sĩ Folkman: Nhìn vào các bệnh khác, có những bệnh cũng lệ thuộc vào sự cấu tạo của máu - angiogenesis, như các bệnh đau khớp xương (arthritis), psoriasis (bệnh da gây nên những đốm đỏ), những bệnh thái hoá và nhiều nữa .
Bruce Zetter: Ngày nay trên thế giới, nhiều phòng thử nghiệm, các khoa học gia đang nghiên cứu về chất ức chế angiogenesis. Hàng tháng nhiều chất ức chế mới được tìm thấy. Các chất sẽ được dùng trong nhiều phương thức mới lạ . Người ta sẽ phối hợp nọ với nhiều cách thức mà chúng ta chưa nghĩ đến.
Trong năm đầu tiên thử nghiệm y tế của thuốc Endostatin, có 61 bệnh nhân được truyền thuốc. Khi liều thuốc được tăng lên, thì sẽ thấy ngay ảnh hưởng của nó trong cơ thể, để bác sĩ quyết định có nên tiếp tục truyền thuốc hay không. Trong tương lai, liều thuốc càng tăng nữa, cộng thêm nhiều phương cách dẫn thuốc vào người bệnh nhân sẽ được thử nghiệm.
Trong công cuộc tìm kiếm 1 tương lai tốt đẹp hơn cho bệnh nhân ung thư, bác sĩ Folkman đã sáng lập ra một ngành y khoa mới và hùng mạnh. Ngày nay hàng ngàn các nghiên cứu gia trên thế giới đang nghiên cứu về angiogenesis. Và bác sĩ Judah Folkman không còn là một dũng sĩ cô đơn trong cuộc chiến chống ung thư nữa .
* * *
Lời người kể chuyện: Một thời gian ngắn sau khi chương trình được trình chiếu, Duane Gay được lấy ra khỏi chương trình Endostatin. Bướu ung thư anh đã lớn hơn thể dạng mà trường y khoa Wisconsin cho phép. Hiện nay anh được truyền thuốc ức chế angigogenesis khác, và anh hy vọng sẽ trở lại với Endostatin khi lệ luât (của trường) cho phép.
Ghi chú: tvmt dùng chữ truyền thuốc vì trong video thấy họ cho thuốc vào portacat của bệnh nhân, giống như truyền thuốc cho hóa trị. Portacat là 1 dụng cụ được bỏ vào người bệnh nhân và gắn qua tĩnh mạch. Dụng cụ sẽ giúp cho hóa trị được chuyền vào dễ dàng và ít gây trở ngại. Tĩnh mạch sử dụng nhiều lần quá sẽ bị chết, tay bệnh nhân bị bầm
tím hết.
Ghi chú 2: tvmt thay chữ Clinical trial bằng "Thử nghiệm bệnh lý trị liệu" thay vì "Thử nghiệm y tế", theo đề nghị của bác Le Thu, vì họ thực sự làm 2 việc cùng 1 lúc là thử nghiệm và trị bệnh. Chữ thử nghiệm y tế là chữ của Hội Ung Thư Việt Mỹ.
http://www.ungthu.org/vacf/cacbenhungthu/ungthuvu_03.asp
Được biết bên VN dùng chữ "Lâm sàng", không hiểu rõ nguồn gốc.
Muốn tìm hiểu thêm xin vào website của The Cancer Warrior:
http://www.pbs.org/wgbh/nova/cancer/program.html
Tran Viet Minh Thanh
Trần Việt Minh Thanh
Thể theo lời yêu cầu, tvmt xin tóm tắt chương trình Nova có tựa là "Dũng sĩ chống Ung Thư". Đây là một chương trình rất hay, công phu, trình bày dữ liệu cần thiết cho những người quan tâm đến bệnh ung thư. Cám ơn bác Le Thu đã giới thiệu chương trình.
Chương trình gồm 8 phần, bắt đầu với Endostatin, một loại thuốc mới, đang trong thời kỳ thử nghiệm y tế (clinical trial), nhằm chống căn bệnh nguy hiểm và làm cho rất nhiều người sợ, bệnh Ung Thư. Nhưng chương trình không nhằm giới thiệu một loại thuốc mới, mà chính là trình bày phương thức chữa ung thư khác hẳn các phương thức hiện nay, khởi đầu từ thuyết mới của bác sĩ Judah Folkman, bệnh viện Nhi Đồng tỉnh Boston, và là giáo sư trường Y Khoa Harvard. Ông đã mất 40 năm để thuyết phục các bác sĩ đồng nghiệp về phương thức chống ung thư cúa ông, đồng thời mất nhiều năm nghiên cứu và hàng triệu đô là để tìm tòi ra cách chữa bệnh ung thư mới này.
Xin nhấn mạnh, Endostatin đang còn trong thời kỳ thử nghiệm y tế. Các cách thức chữa ung thư khác, như hoá trị, được coi là độc dược, nhưng đã và đang là phương thức chữa ung thư rất công hiệu cho rất nhiều bệnh ung thư. Đã có nhiều bệnh nhân sống lâu dài hay kéo dài cuộc sống nhờ hóa trị và quang tuyến trị liệu.
Phần I: Endostatin: Thuốc chữa bệnh ung thư đang trong thời kỳ thí nghiệm .
Sau nhiều năm trong phòng thí nghiệm, một loại thuốc mới, tên là Endostatin, với giá trị không lường được, lần đầu tiên đem ra thử nghiệm trên con người. Nếu gặt hái được kết quả tốt đẹp, thì có thể nói thuốc sẽ thay đổi cách chữa bệnh ung thư ngày nay. Không như các thuốc ung thư khác, còn bị gọi là thuốc độc (vì giết chết tế bào ung thư, cũng như tế bào lành), cho đến ngày nay chưa thấy Endostatin gây ảnh hưởng phụ nào lớn, nếu có thì cũng như thuốc aspririn mà thôi.
John Matt và Duane Gay là hai bệnh nhân được lựa để được truyền thuốc Endostatin. Hai người thuộc chương trình thử nghiệm ý tế, mà trong lịch sử y khoa được coi là chương trình hằn mong chờ nhất từ trước tới nay. Cả hai có trường hợp tương tợ về bệnh trạng. John Matt, đã thử mọi thứ cứu chữa khác (hóa trị, xạ tuyến), mà không thành công . Các bác sĩ của anh đã bó tay. Anh đã gần hết thời hạn. Trong người John Matt, bướu ung thư đang lớn dần, thuộc thời kỳ thứ tư, và đang lan rất nhanh.
Endostatin là hy vọng cuối cùng của anh, mà có chắc nó sẽ có kết quả không? Bảy ngày trong tuần John Matt lái xe 3 tiếng đồng hồ đi về, tới trung tâm điều trị Ung thư, thuộc đại học Wisconsin, và được truyền thuốc 12 liều thuốc Endostatin mỗi ngày. John Matt biết rằng anh đang sống trong thời kỳ mượn tạm, vì đáng lẽ anh đã ra đi từ mấy năm về trước. Là bệnh nhân thứ 16 tại bệnh viện ở Wisconsin, mà có rất nhiều mong mình được nhận là bệnh nhân thứ 17.
Phóng viên cho đài truyền hình, Duane Gay là khuôn mặt có tên tuổi trong cộng đồng, anh cũng bị ung thư rất nặng. Không những người ta tìm thấy nhiều bướu ung thư trong phổi anh, mà còn bị một bứu ung thư rất lớn trong lá gan nữa. Anh đã trải qua nhiều kỳ giải phẩu và nhiều tháng hóa trị. Nhưng hai phương thức này cũng không giúp được gì cho Duane, và bác sĩ cho biết ung thư vẫn tiếp tục tăng nhanh trong người anh.
Tại bệnh viện thuộc đại học Wisconsin, nhân viên điều hành Jim Thomas cho biết có tới mấy ngàn bệnh nhân xin vào chương trình thí nghiệm thuốc Endostatin, nhưng bệnh viện chỉ có thể nhận được khoảng 20 bệnh nhân mà thôi. Duane Gay được nhận vì anh hội được những điều kiện thích hợp để được điều trị thuốc Endostatin. Bướu của Duane nằm tại một chốn dễ dàng kiểm soát, và dễ rút tế bào ra để thử nghiệm (biopsy).
Ban đầu liều thuốc được truyền vào rất ít, bác sĩ thì chú trọng vào những phản ứng phụ, còn bệnh nhân chỉ mong Endostatin có thể ngưng hay làm xẹp quả bướu ung thư của họ . Phải nói các bệnh nhân rất can đảm vì các bác sĩ không biết thuốc có tác dụng gì trên cơ thể của họ như thế nào, và có hiệu quả hay không .
Mỗi bệnh nhân là một tâm sự, anh Duane Gay nói: Đây là một cuộc chiến. Kẻ thù đã lấy mất nhiều mạng sống và đã mang đến khổ đau cho gia đình các nạn nhân. Tôi cảm thấy hân hạnh và nhún mình để là 1 chiến sĩ sẳn sàng đổ bộ . Lúc này, đó là cảm xúc chân thành của tôi .
Phần II: Làm tắt nghẽn đường dẫn lương thực đến bướu Ung Thư
Thuốc Endostatin được khám phá tại bệnh viện Nhi Đồng, tỉnh Boston, trong phòng thử nghiệm của bác sĩ Judah Folkman. Đây là 1 khám phá đã qua nhiều thử thách khó khăn, và đã tốn rất nhiều công sức và thì giờ của các khoa học gia: Bốn mươi năm của khoa học phức tạp đã thay đổi sự hiểu biết của y khoa về phương cách ung thư làm việc .
Bác sĩ Everett Kop, cũng là y sĩ toàn quốc (thập niên 80) nói: Khám phá này sẽ đi vào lịch sử y khoa như là một tác động mạnh vào phương thức con người hiểu bệnh ung thư, và là một phương cách rất thực dụng trên đời sống của bệnh nhân . Nhưng ban đầu ý tưởng của B.Sĩ Folkman đã bị chống đối và chỉ trích nặng nề. Các khoa học gia đồng nghiệp đã nghi ngờ khi B.S Judah Folkman trình bày thuyết mới về bệnh ung thư của ông, vì nó khác hẳn phương thức mà các bác sĩ đang chữa ung thư. B.S Folkman muốn tìm hiểu bí mật sâu xa mà bệnh ung thư đã gây ra.
Từ trước tới nay, chữa bệnh ung thư chính gồm giải phẩu, hóa trị, và quang tuyến trị liệu (radiation). Hóa trị (chemotherapy) là những liều thuốc rất mạnh, có tính cách độc dược làm hại những phần lành mạnh khác của cơ thể con người. Nhiều liều thuốc phát sinh từ hơi độc của thời Đệ Nhất thế chiến, rất độc hại cho các tế bào, và có những phản ứng phụ như rụng tóc, làm cho hệ thống miễn nhiễm của con người bị ảnh hưởng nặng, ngoài ra còn tác động đến đường ruột của cơ thể. Hoá trị còn ảnh hưởng đến kháng thể của nhiều loại thuốc, làm các tế bào biến đổi, và bỗng nhiên cự lại các thuốc trước đây hiệu nghiệm cho cơ thể người đó .
Thuốc Endostatin không tấn công vào các tế bào ung thư, mà nó lại đi kiếm các tế bào lành, những tế bào nuôi dưỡng bướu ung thư, có tác động làm cho bướu ung thư tăng trưởng, và Endostatin sẽ chận đứng các tế bào đó.
Làm tắt nghẽn đường dẫn lương thực tới bướu Ung thư . Ấy chính là ý kiến cách mạng của bác sĩ Folkman. Ý kiến này bắt nguồn từ năm 1961, khi chính phủ Hoa Kỳ giới thiệu một hàng không mẫu hạm nguyên tử đầu tiên có thể ra khơi trong thời gian dài tới mấy tháng, nhưng thời ấy máu chỉ có thể dự trữ trong vòng ba tuần mà thôi. Hải quân đã tuyển mộ được một bác sĩ giải phẩu trẻ, tên là Judah Folkman trong công việc tìm kiếm cách lưu trữ lượng máu lâu dài hơn.
Công việc của bác sĩ Folkman là làm đông lại hồng huyết cầu, rồi khi cần chỉ cần làm sống lại các tế bào máu. Cùng với đồng nghiệp, B.S. Fred Becker, B.S. Judah Folkman đã cấu tạo một hệ thống giả, tương tự như cơ quan lưu thông của con người, và đính vào đó tuyến giáp của con thỏ. Khi hệ thống được mở ra, máu bắt đầu lưu thông, và tuyến giáp phát triển.
Tiếp theo, B.S. Folkman muốn lượng máu đó, khg những có thể trợ lực cho cơ quan cần tiếp máu, mà còn có thể từ cơ quan đó, giúp các cơ quan khác phát triển. B.S. Folkman dùng một tế bào phát triển rất nhanh, đó là tế bào ung thư lấy từ 1 con chuột Và rồi các bướu đen từ từ thoát ra ngoài giáp tuyến, và rồi các bướu này đã làm 1 điều mà từ trước tới nay chưa xảy ra. Chúng ngừng phát triển.
Lấy làm lạ, B.S. Folkman bèn bỏ tuyến giáp đó trở lại vào cơ thể con chuột, nhưng khi về lại cơ thể con chuột, thì các tế bào đó sống lại . Tại sao các bướu đó lại sống mạnh mẽ trong cơ thể con chuột, mà lại ngưng sống trong tuyến giáp? Dưới ống kính hiển vi, bác sĩ Folkman chỉ thấy một điểm khác biệt: Trong cơ thể con chuột, nhiều mạch máu đến nuôi dưỡng cái bướu, còn trong tuyến giáp thì khg thấy mạch máu nào cả.
Có nghĩa là các mạch máu đã đóng 1 vai trò nào trong sự phát triển của ung thư? B.S. Folkman cảm thấy là ông đã kiếm ra 1 điều quan trọng nào đó, nhưng không ngờ phải mất 30 năm để ông hiểu được cách thức mà các bướu đã kiếm được máu để nuôi dưỡng và phát triển chúng.
Sau thời gian phục vụ cho hải quân, bác sĩ Folkman trở lại tiếp tục thực tập trong ngành giải phẩu. Tài năng của ông trong nghề là một huyền thoại . Chỉ có 5 năm thôi, ông đã có tiếng là 1 bác sĩ giải phẩu trẻ nhất, được đề cử chức vụ Y Sĩ Trưởng tại Bệnh Viện Nhi Đồng. Có điều B.S. Folkman, chưa được huấn luyện trong ngành Nhi Khoa. Trường đại học Y Khoa Harvard gởi B.S. Folkman tới huấn luyện dưới quyền của 1 vị bác sĩ rất nổi tiếng, đó là bác sĩ Everett Koop. B.S. Koop cho biết, thông thường cũng phải mất 2 năm để hoàn tất chương trình huấn luyện, nhưng với bác sĩ Folkman, chỉ mất 6 tháng mà thôi. Tuy được trọng vọng trong ngành giải phẩu, B.S. Folkman không thể nào quên vụ cái bướu thời ông còn trong hải quân và mỗi lần ông cắt đi 1 cái bướu và thấy mạch máu (bám đầy quanh bướu), ông lại thắc mắc không hiểu đó có phải là chìa khóa cho sự phát triển của ung thư khg .
Cuối thập niên 1960, B.S. Folkman bỏ rất nhiều thì giờ trong phòng thí nghiệm. Ông đang phát triển một thuyết mới về ung thư. Ông gọi đó là angiogenesis, - 1 từ đã cũ. Angio có nghĩa là máu, genesis: hình thành, angiogenesis: sự cấu tạo của máu. Ông tin rằng 1 cái bướu không thể tăng hơn đầu của 1 cái kim, nếu không có lượng máu, và ông cũng nghĩ rằng cái bướu đã tiết ra 1 yếu tố bí mật nào đó để kích thích sự hình thành của các mạch máu, hầu giúp nuôi dưỡng và làm cho cái bướu tăng trưởng .
Với ý tưởng mới mẻ này, B.S. Folkman đã bị các đồng nghiệp nghi ngờ và chống đối. Khoa học tin rằng sự bí mật của ung thư nằm trong chính tế bào ung thư, chỉ có bác sĩ Folkman là đi tìm hiểu về các mạch máu nuôi dưỡng nó. Trong ngành vật lý tế bào, các nhà khoa học gia đã tìm hiểu tế bào, những chromosone, những gene đã tạo nên ung thư, chứ không phải các mạch máu. Mạch máu là cơ quan đem dưỡng khí và chất bổ lưởng vào cơ thể, cũng như đẩy những phế thải ra ngoài .
Ngoài ra, B.S. Folkman là một bác sĩ giải phẩu, được giáo dục và huấn luyện để cắt các bướu ra chữ không phải là bác sĩ được huấn luyện để tìm hiểu tế bào, lý tính của tế bào, và các phương cách mà tế bào phát triển. Một nhà khoa học gia, nghiên cứu bệnh học đã tuyên bố: Angiogenesis chỉ là một sự bốc cháy nhất thời mà thôi.
Phần III: Sự Hoạt Động của Các Mạch Máu Cho Tế Bào Ung Thư (Angegionesis In Action)
Nhưng B.S. Folkman là một người có lòng quyết chí mạnh mẽ . Từ lúc còn nhỏ ông đã 1 lòng đam mê với ngành y khoa. Kinh nghiệm là bác sĩ giải phẩu cho ông càng tin tưởng về thuyết các mạch máu của mình. Không như các bác sĩ chuyên về nghiên cứu, ông đã trông thấy và cầm trên tay những bướu ung thư còn nóng và đầy máu, vì thế để trả lời các lời chỉ trích, B.S. Folkman nói: Bởi vì quý vị không thấy mạch máu nơi các bướu ung thư. Tôi biết họ (các bác sĩ nghiên cứu) chỉ nhìn thấy các bướu này đã được lấy ra khỏi cơ thể, máu đã được chùi sạch, chúng chỉ là các mẫu sẳn sàng để được nghiên cứu, thí nghiệm.
Chỉ còn một cách để các đồng nghiệp hết nghi ngờ. B.S. bắt đầu làm những thí nghiệm riêng để chứng minh là sự hình thành của máu giúp cho bướu tăng trưởng là một điều có thật! Thử nghiệm này sẽ là điểm khởi đầu thay đổi nhiều tư tưởng.
Giác mạn mắt là một vòm trong che con ngươi. Không thể có mạch máu nơi vòm mắt. Cùng với B.S. Michael Gimbrone, B.S. Folkman đã bỏ vào 1 cái bướu bé tí ngay giữa vòm mắt của 1 con thỏ. Sau vài ngày, nhiều mạch máu đã nổi lên quanh viền con ngươi, và chúng chạy thẳng vào cái bướu như bị nam châm hút. Rõ ràng đây là sự cấu tạo của máu đang hoạt động.
Các tia máu bắn ra, và khi chúng tới gần cái bướu, các tế bào bướu tăng trưởng chung quanh bướu, và cái bướu lớn dần hơn. Trong vòng 2 tuần, cái bướu đã tăng tới 16, 000 lần dạng nguyên thủy . Khi người ta cắt bỏ bướu đi, thì các mạch máu rút lại và dần biến mất. Tuy vậy, điều này vẫn chưa thuyết phục được các khoa học gia. Câu hỏi kế tiếp là: cơ cấu nào đã tạo nên sự hình thành của máu, nhất là yếu tố mà bưóu ung thư đã lôi kéo được sự cấu tạo của mạch máu.
Công cuộc tìm kiếm yếu tố đã kích thích sự tăng trưởng của mạch máu, bắt đầu từ cái bướu, và từ phòng thí nghiệm chuột. Phân tử mà họ tìm kiếm có lẽ từ một chất đạm, nhưng kiếm ra được phải nói đến lòng nhiệt tình của 2 nhà nghiên cứu tại phân khoa của BS. Folkman: Yuen Shing và Michael Klagsbrun.
Thân thể con người có tới ngàn chất đạm, và điểm khó khăn là làm sao tách 1 phân tử ra khối đông phân tử. Thanh lọc và phân tách là một công việc rất tỉ mỉ trong khoa học. Bướu được xây thành 1 chất lỏng, được bỏ vào 1 cái ly có các chất liệu có thể thu hút một vài phân tử. Từ một cái ống, các chất đạm rơi rớt từng giọt, chất đạm lớn rơi ra trước, các chất đạm nhỏ rơi sau, chất bé tí nhất rớt rơi cuối cùng .
Mỗi ống thử nghiệm giờ đây bớt có 1 số chất đạm, và trong đó có phân tử mà bạn muốn tìm kiếm, tất nhiên có ống không có . Giờ đây phải thử nghiệm cái nào kích thích mạch máu phát triển, cái nào không. Hai nhà nghiên cứu đã chia các phân tử theo dạng, sức nặng, lực điện tử, từng giọt một. Thật là một công trình khoa học kéo dài hàng tuần, tháng, rồi nhiều năm trôi qua.
Có nhiều phân tử rất khó thanh lọc, tỉ dụ như Interferon, phải mất 17 năm mới lọc được phân tử này . Cuộc nghiên cứu kéo dài 10 năm, đến cả BS Folkman cũng mất cả kiên nhẫn. B.S. Folkman không biết phải nên kiên trì, hay bỏ dở . Khó mà biết được phải kéo dài bao lâu, và sự kéo dài có mang lại kết quả gì không . Nếu giữ mãi 1 ý tưởng có thể bị cho là cứng đầu, không đi đến đâu . Rồi 1 ngày nọ, nghiên cứu gia Klagsburn and Shing thử 1 chất liệu gọi là "heparin", khi họ bỏ vào, 1 chất đạm dính vào chất heparin như keo . Có thể đây là phân tử mà họ tìm kiếm chăng? Họ thử vào con ngươi, chỉ trong vòng vài giây, mạch máu chạy ào đến. Đúng rồi! Thử nghiệm hóa học này đã chứng minh là bướu có thể tiết ra 1 phân tử thu hút các mạch máu.
Chẳng mấy chốc, mà những người trước đây đã chỉ trích phương thức của bác sĩ Folkman, bỗng nhiên biến thành đồng nghiệp cùng cạnh tranh tìm kiếm phân tử . Lúc đầu là 1 phân tử, đến ngày nay khoa học đã kiếm ra được 17 phân tử.
Tìm kiếm phân tử đã kích thích sự cấu tạo của mạch máu mới chứng minh angiogenesis có thật, nhưng BS Folkman chưa băng lòng. Ông muốn kiếm 1 phân tử làm công việc ngược lại: cản trở mạch máu đừng tăng trưởng, như vậy là có thể kiếm được 1 đường lối khác để chữa trị ung thư.
Phần IV: Ngăn Chặn Cấu Tạo Của Máu (Preventing Angegionesis)
Vậy, mục đích của bác sĩ Folkman là tìm 1 cái gì đó để ngăn chận các mạch máu ngưng tăng trưởng. Điều khó khăn là họ không biết phải kiếm ra làm sao, dù họ gọi nó là "angiogenesis inhibitors" (Ức chế sự cấu tạo của máu), mà thật sự đó chỉ là tên gọi, mà "nó" chưa hiện hữu.
Giữa thập niên 70, lúc khởi đầu công việc tìm kiếm, các sinh viên hậu bác sĩ đã cắt hàng trăm ký tủy xương bò. Theo B.S. Folkman thì tủy xương là nơi có thể có phân tử này và trách nhiêm của Bob Langer, thuộc đại học MIT, là kiếm cho ra phân tử đó. Chính ra vào trong thời kỳ phôi thai của sụn xương, thì chúng có mạch máu, nhưng mỗi khi đã lớn hơn, thì mạch máu không còn nơi sụn nữa. Suy ra, sụn hay tế bào sụn đã làm cho mạch máu biến mất. Bob Langer đã dùng hóa học để tách các sụn ra, từ đó các phân tử có chất đạm được thoát ra. Công cuộc tìm kiếm phân tử ức chế angiogenesis bắt đầu!
Như mò kim dưới đáy biển, cuộc thử nghiệm khó khăn, tỉ mỉ, chia các phân tử từng cột, thanh lọc và thử nghiệm chúng. Nhưng lần này là để kiếm phân tử có tác động ngưng sự cấu tạo của mạch máu. Họ nhỏ vào con ngươi nơi gần các mạch máu chất sụn có chất kích thích mạch máu. Nếu mạch máu tăng trưởng chạy vào sụn, tất nhiên sụn đó không có chất ức chế, nhưng nếu sụn có chất ức chế, thì máu sẽ ngưng tăng trưởng. Kết quả là họ có tìm thấy chất sụn có chất ức chế, nhưng mỗi sụn có hàng ngàn phân tử và điều khó là phải thanh lọc các phân tử, mới biết phân tử nào là phân tử ức chế angiogenesis.
Cuộc thử nghiệm của khoa học cũng đến tình cờ như mọi việc trong đời con người. Điều may mắn đến khi Don Ingber, 1 nghiên cứu viên, gia nhập nhóm thí nghiệm của B.S. Folkman để tìm hiểu vai trò của tế bào máu. Một hôm Don ngạc nhiên thấy có 1 nấm bị nhiễm trùng đã tăng trưởng bất thường, thay vì mọc đều đặn như các tế bào khác. Các mạch máu bình thường phải nằm dài để tăng trưởng, nhưng các tế bào của nấm nhiễm trùng này mọc vòng, và rồi chết, tuy vậy chỉ có những tế bào gần chỗ nấm mới bị ảnh hưởng, còn các nơi xa hơn thì nó lại mọc thẳng và trở lại bình thường. Theo luật thí nghiệm, lúc đang cấy vi khuẩn mà bị nhiễm phải nấm, thì phải vứt các nấm đó đi, nhưng Don Ingber, với ý nghĩ rằng cái nấm này có 1 thứ gì bí ẩn, hình như nó có thể điều khiển các hình dạng, các sụn tế bào, và sự tăng trưởng của sụn, thế ông giữ lại các nấm đó lại.
Phải mất vài tháng sau, ông mới nói chuyện với B.S. Folkman. Hai người đi xem con vi khuẩn, và đúng như Don Ingber nghi ngờ trong cái đĩa con con, con vi khuẩn đó đã chận đứng angiogenesis. Và sau đó đã trở thành thuốc thí nghiệm, tên là TNP-470. Thuốc này có thể chận đứng bướu trong con chuột khoảng 67%. Thật là một kết quả khả quan, nhưng B.S. Folkman chưa bằng lòng, ông muốn kiếm ra 1 thuốc có kết quả tốt hơn.
Phần V: Cách Xử Dụng Mới cho Loại Thuốc Cũ
Cuộc tìm kiếm phân tử ức chế sự cấu tạo của mạch máu tiếp tục, nhưng vẫn chưa có một thuyết rõ ràng để hướng dẫn các nghiên cứu gia.
Rồi Robert D'Amoto, 1 hậu tiến sĩ, quyết định thử một cách khác. Thay vì tìm kiếm 1 chất liệu mới, ông lục lại những thuốc đã được sản xuất, với ý nghĩ: Có thể có 1 loại thuốc đã được bào chế cho 1 mục đích khác, mà thuốc này đã chận đứng sự tăng trưởng của mạch máu, như là 1 phản ứng phụ.
Từ ý nghĩ đó B.S. Roberto (Bệnh viện Nhi Đông/ trường Y Khoa Harvard) đã tự hỏi: "Trong thân thể con người những thành phần nào cần các mạch máu?" Có nghĩa là nếu không có máu, phần thân thể đó sẽ héo mòn đi. Đầu tiên, ông nghĩ đến sự rụng tóc (alopecia), do các mạch máu khg còn dẫn đến mạch tóc nữa, nhưng nhiều thuốc đã làm rụng tóc mà không có liên quan gì đến sự tăng trưởng của mạch máu. Ông kiểm sao từng bộ phận trong thân thể của mình mà không nghĩ ra điều gì cả. Bỗng nhiên 1 ý nghĩ tuôn ra: Tôi chỉ nhìn trên phương diện đàn ông mà khg nghĩ gì theo phương diện phụ nữ. Nếu là 1 nữ khoa học gia, cô sẽ nói: kinh kỳ tôi sẽ ngưng. Rồi ông ta nhớ đến các khoảng thời kỳ trong cuộc đời người đàn bà, khi sự tăng trưởng của máu là quan trọng: Đó là thời gian người đàn bà có bầu. Nếu 1 phụ nữ đang có bầu mà uống thuốc ngưng cho máu tăng trưởng, thì đứa bé sẽ ra đời với tật nguyền. Thế là ông lục các thuốc còn gọi là độc dược, từ xưa đã gây nên tật nguyền nếu dùng trong lúc thai nghén. Sáu thứ thuốc hiện ra trên màn ảnh (điện toán), và 1 thuốc đã làm cho ông rùng mình - Đó là thalidomide.
Vào thập niên 60, thalidomide được các bác sĩ ở Âu Châu kê toa cho các phụ nữ đang có thai, mục đích giúp chống nôn mữa. Kết quả thật là khủng khiếp, cả ngàn đứa trẻ ra đời bị tật nặng nề. Chẳng nhẽ thuốc ghê rợn này lại có thể dùng được để chữa ung thư? Bác sĩ Robert D'Amato gởi thuốc đến để thử nghiệm.
Lúc bấy giờ, phòng thí nghiệm của B.S. Folkman đã chế ra một phương thức thử nghiệm mới cho angiogenesis: dùng trứng gà đang thụ thai. Trứng thì có nhiều, rất rẻ và thử nghiệm lại rất mau. Quả trứng được mở ra cẩn thận để tránh ảnh hưởng đến bào thai, mà lúc này còn tí ti, chỉ là 1 hệ thống tuần hoàn. Sau hai ngày trong lồng nuôi, trứng gà đã sẳn sàng đế thử nghiệm. Chất liệu có nhỏ thalidomide được bỏ vào quả trứng. Thử nghiệm đầu tiên thấy mạch máu vẫn tăng trưởng với thuốc thalidomide. Nhưng sau đó Robert nhớ 1 điều quan trọng: Để cho thuốc thalidomide hoạt động tích cực, thuốc phải được dùng bởi thân thể. Robert thử lại với thalidomine đã được metabolized, và kết quả là mạch máu đã tránh nơi có thuốc và nó chỉ tăng trưởng chung quanh đó. Vậy là thuốc thalidomide có tác dụng ngăn chận sự cấu tạo của mạch máu. Vì thuốc đã co’ mặt trong ngành rồi, cho nên thuốc được đưa ngay vào thử nghiệm y tế (clinical trial, chữ VN dùng hiện nay là lâm sàng).
Năm 1997 tại trung tâm nghiên cứu ung thư Arkansas, B.S. Bart Barlogie là vị y sĩ đầu tiên thử thalidomide cho bệnh nhân ung thư. Ông là bác sĩ chuyên môn về 1 bệnh ung thư gọi là multiple myeloma (về tủy xương). Đây là 1 bệnh mà cách chữa trị còn rất khan hiếm. Anh Tim Dawson, 40 tuổi, với con cái con bé nhỏ, đã thử mọi liều thuốc mà không có kết quả. Anh đã trải qua hai cách chữa cho myeloma - hóa trị và thay tủy xương. Bác sĩ Barlogie đề nghị thử thuốc thalidomide. Thật sự lúc đó anh Tim cũng chưa hề nghe đến cái tên thalidomide, anh không biết đây là loại thuốc đã gây ra tật nguyền cho trẻ em còn trong bụng mẹ. Về sau được biết rồi, thì anh lại không hiểu làm sao nó có thể chữa được bệnh ung thư của anh.
Nhưng anh Tim không còn có sự lựa chọn nào hơn. Anh bắt đầu uống liều mạnh nhất: 16 viên thalidomide mỗi ngày. Bốn tuần sau anh tới cho bác sĩ Barlogie khám lại, và bác sĩ thấy sức khoẻ anh không đến nỗi tệ. Rồi người ta khám máu anh. Hồng huyết cầu cao. B.S. tưởng anh vừa mới được chuyền máu. Không phải thế. Các huyết cầu của anh đều bình thường . Đó là thật 1 điều đáng ngạc nhiên cho người đã chống bệnh này bằng mọi cách, và nay nhờ 1 viên thuốc có thành tích xấu, sức khoẻ anh khá hơn, nó lại không gây ảnh hưởng phụ gì lớn. Tim được liệt vào thời kỳ thuyên giảm (remission) được một năm rồi, và anh vẫn còn uống thalidomide. Sau 1 thời gian, thuốc cũng có gây tí ảnh hưởng phụ. Anh mau chóng mệt mỏi, đầu ngón tay và chân cái của anh bị tê. Không phải ai cũng dùng thuốc thalidomide có kết quả như với Tim! Mà trong trường hợp Tim, thì anh rất đỗi sung sướng. Anh hoạt động bình thường trong nhiều lãnh vực, mà nếu không có thalidomide thì anh không thể làm gì được. "Tôi không biết giờ đây tôi ra sao, nếu tôi không uống thuốc này!" anh Tim giải bày tâm sự.
Phần VI: Làm cách nào mà Ung thư lan ra - Sự Di Căn của Ung thư
Trở lại với bác sĩ Folkman. Trước khi đạt được kết quả đầy hứa hẹn như trường hợp thuốc thalidomide, quả là một điều khó khăn cho B.S. Folkman, vì ông phải chọn một trong hai ngành: Giải phẫu hoặc nghiên cứu. Cuối cùng ông đã chọn nghiên cứu. Tuy vậy quá trình giải phẫu là kinh nghiệm quý giá, nhất là với loại ung thư đang lan ra trong cơ thể bệnh nhân (di căn).
Phải hiểu rằng các tế bào ung thư nguy hiểm vì chúng không nằm tại 1 nơi. Tế bào tuyến giáp (thyroid), tế bào gan không lang thang tới các nơi khác trong cơ thể. Mỗi khi chúng vào lượng cung cấp máu và bắt đầu lưu thông thì chúng sẽ chết. Ngược lại tế bào ung thư chạy khắp nơi, một cái bướu ung thư bằng viên bi có thể nhả ra 1 triệu tế bào ung thư mỗi ngày, và nhiều tế bào đã sống trong cuộc hành trình dài, đi từ vú đến phổi, đến gan vvv. Tế bào ung thư có thế vào hệ thống máu, sống ở đó, và rồi lại đi ra từ óc, phổi và tăng trưởng trở lại. Tỷ dụ nếu 1 bệnh nhân có nhiều bướu trong gan, và nếu các bướu đều tăng trưởng, thì chẳng mấy chốc cả buồng gan bị thay bởi tế bào ung thư và không còn có thể làm việc được nữa. Có khi sự di căn này nằm vào vị trí mới, và nếu chúng không gọi được lượng máu thì chúng không lớn, nhưng mà chúng chưa chết, chúng chỉ đang ở trạng thái ngủ. Đến lúc nào các bướu ấy thức dậy thì khoa học không biết rõ, nhưng có 1 trường hợp làm bướu thức giấc: Đó là lúc bướu chính bị cắt bỏ đi, thì bỗng nhiên ti’nh ca’ch di căn được đánh thức, các mạch máu mới xuất hiện giúp cho bướu ung thư lan đi nhanh. Điều đó chỉ xảy ra trong 1 số trường hợp bệnh nhân mà thôi, nhưng đã làm cho nhiều bác sĩ giải phẩu điên đầu từ cả thế kỷ nay. Người ta thường đổ lỗi cho các bác sĩ giải phẩu - có thể vị bác sĩ này đã làm động đến vết thương – hay phải có những yếu tố nào đó.
Phải chăng đó là lỗi bác sĩ giải phẩu hay có yếu tố nào khác hơn mà bướu ung thư đang ngủ, và chỉ thức dậy khi cái bướu chính bị cắt bỏ? Điểm bí mật này được hé mở trong 1 trường hợp tình cờ, giúp cho B.S. Folkman có câu giải đáp.
Một hôm, bà Noël Bouck của trường y khoa, đại học Northwestern tới dự 1 buổi họp về ung thư. Hôm đó bà mang giày mới, vì thế chân bị bỏng đau. Bà đi kiếm1 phòng trống ngồi dưỡng chân. Mọi người bước vào phòng, và vì lịch sự bà không thể đi ra. Phòng ấy là nơi B.S. Judah Folkman sẽ làm 1 thuyết trình về angiogenesis. Mấy năm trong ngành nghiên cứu về ung thư mà bà Noel không hề nghe nói đến B.S. Folkman và thuyết ung thư cần mạch máu để sống. Sau buổi thuyết trình, bà nhận thấy B.S. Folkman có lý. Trở về, bà chuyển từ nghiên cứu về gen của ung thư qua angiogenesis. Hai năm sau, B.S. Folkman ngồi đọc sách báo với vợ, và trong tờ báo Y khoa ông đã đọc được bài nghiên cứu của bà Noel Bouck. Bà đã khám phá ra 1 điều rất lý thú.
Các tế bào bình thường tiết ra chất ức chế để máu khỏi cấu tạo tức angiogenesis. (Trong video đó là 1 chất được tô vàng). Chất ức chế này thuộc vào cơ thể, thuộc thiên nhiên để chống bệnh tật. Nó giúp giữ các mạch máu trong cơ thể nằm im lặng (tức không sanh sản). Nhưng khi các tế bào bình thường này biến thành tế bào ung thư thì có hai điều xảy ra: Trước hết, chúng bắt đầu sản xuất các kích thích mạch máu, đó là tế bào màu xanh dương, cùng lúc chúng giảm đi những ức chế mà thường chúng hay sản xuất. Đó là sự quân bình của các hoá chất, khi chất kích thích phải lấn áp chất ức chế, để cho các mạch máu có thể tăng trưởng .
Có điều bác sĩ Folkman không hiểu là tại sao tế bào ung thư vẫn tiếp tục tạo nên chất ức chế cho mạch máu ? Câu hỏi này ám ảnh B.S. Folkman hàng ngày trong mấy tháng liên tiếp, cho đến một sáng tháng 9, nhằm ngày lễ Yom Kippur của Do Thái, và bỗng nhiên mọi chuyện trở nên sáng tỏ .
Vào lúc 10 giờ sáng đó, giờ Boston, trong giáo đường Do Thái, B.S. Folkman bỗng hiểu tính cách di căn của ung thư, một bí mật lâu đời của thế kỷ. Khi bướu ung thư chính đang còn tại chỗ, nó sản xuất 1 ít ức chế, chất màu vàng, nhưng không đủ để chế ngự chất màu xanh kích thích. Nhưng chất ức chế đó cũng đủ vững để tồn tại cuộc hành trình dài qua dòng máu, hay những vụ di căn nhỏ, ngăn cản chúng kêu gọi các mạch máu mới. Đến khi bướu ung thư chính bị lấy đi, thì chất ức chế này cũng bị lấy ra khỏi nguồn nguyên thủy. Lúc này tính cách di căn của bướu ung thư tự do làm việc của nó, nghĩa là kêu gọi máu cung cấp thêm để ung thư tăng trưởng .
Thật là một điều rõ ràng đối với B.S. Folkman, là chất ức chế mà ông đang tìm kiếm từ hai chục năm nay, nằm trong chính cái bướu chính. Bấy giờ ông phải truyền nguồn cảm hứng đó cho đồng nghiệp và các học trò để kiếm ra nó.
Phần VII: Tìm Kiếm Chất Ức Chế Mới
Mặc lời thuyết phục của B.S. Folkman rằng cuộc thử nghiệm sắp tới sẽ đầy hứa hẹn, nhưng năm 1990, rồi 1991 qua đi, chẳng một ai chịu bắt tay vào việc cả. Cho đến tháng 7, 1991, thì Michael O'Reilly gia nhập phòng thí nghiệm. Lúc bấy giờ O'Reilly cũng chẳng biết rõ ràng mình phải làm việc cái gì. Thế rồi Michael bắt đầu với bướu ung thư của con chuột.
Sau khi xây nhiễn cái bướu để qua các kỳ thí nghiệm thì các chất kích thích được nhận diện dễ dàng. Tuy vây, có quá nhiều chất đạm, thật khó mà phân biệt chất đạm nào là chất ức chế angiogenesis. Michael bèn nghĩ đến những nơi khác ít chất đạm hơn, may ra dễ tìm thấy chất ức chế từ đó, và chỉ có lúc cơ thể phế thải những chất không dùng tới, là nơi ít chất đạm và đó là nước tiểu. Điểm khó khăn là 1 con chuột chỉ có thể tiểu 1 cc một ngày, mà cuộc thử nghiệm thì cần 1 số lượng lớn nước tiểu. Michael O'Reilly bèn thiết kế cho các chuồng chuột nằm cạnh nhau, và đục 1 cái phểu để hứng nước tiểu vào 1 chai lớn. Rồi ông cho chúng uống nước đường vì chúng rất chuộng loại nước này, thế là chúng đi tiểu tối ngày.
Sau công việc lấy nước tiểu, lại phải qua thời kỳ thanh lọc từng phân tử chất đạm, để tìm kiếm chất ức chế angiogenesis. Cuộc nghiên cứu tỉ mỉ bắt đầu từng cột, từng cột một, từng giọt, từng giọt một, từng quả trứng này qua quả trứng nọ . Phải mất hơn hai năm các nhà khoa học gia mới kiếm ra phân tử mà họ đợi chờ.
Họ gọi chất đó là Angiostatin. Angio = mạch máu, statin = ngưng lại . Với phân tử đã được nhận diện, đã đến lúc làm thí nghiệm cuối cùng, chữa ung thư. Có thể phân tử đạm này giúp cho bướu ung thư nằm ngủ, không di căn trong cơ thể chăng?
Michael dùng 20 con chuột có loại ung thư đặc biệt nằm trên lưng, mà ông biết rằng nó đã bắt đầu có triệu chứng lan vào phổi, nhưng bướu ung thư chính còn ở nguyên gốc thì tính cách di căn này cũng vẫn còn đứng yên, chưa lan mạnh. Ông bèn cắt cục bướu chính ra, và chia ra 2 nhóm chuột, 1 nhóm được chích lượng angiostatin hàng ngày vào, và nhóm kia thì không. Rồi họ ngồi trông chừng tình trạng của các con chuột. Nếu con chuột nào coi bệnh quá, thì họ ngưng chích thuốc.
Ngày mỗ các con chuột, B.S. Folkman đã gọi tất cả những người làm trong phòng thí nghiệm lúc bấy giờ để chứng kiến, vì có thể đây là điểm lịch sử của y khoa. Michael bắt đầu mỗ con chuột có thuốc angiostatin . Phổi con chuột trông mạnh khoẻ, ung thư không bị lan tới. Rồi họ mỗ con chuột không được chữa thuốc. Điểm khác biệt thật rõ ràng! Phổi con chuột đầy máu, nặng nề vì đầy bướu ung thư. Michael mỗ 20 con chuột, và sự tương quan trông thấy rõ. 10 con chuột có thuốc angiostatin không bị ung thư lan ra. Qua nhiều năm tìm kiếm, angiostatin là 1 chất chống tăng trưởng ung thư có kết quả nhất từ trước tới nay.
Một năm sau Michael lại kiếm ra thêm 1 chất ức chế sự cấu tạo của máu nữa, và gọi là Endostatin.
Bás sĩ Folkman nói: Nhiều cuộc nghiên cứu đưa đến thất bại. Các nhà nghiên cứu có khi mất hàng nhiều năm. Rồi đôi khi cuộc tìm kiếm đưa đến khám phá vĩ đãi, và rồi họ mới suy ra rằng lần đầu trong đời, tôi biết được điều mà trong lịch sử loài người chưa ai biết đến. Tôi đã hiểu phương cách mà thiên nhiên hoạt động. Điều đó không xảy ra cho nhiều khoa học gia. Nếu nó xảy ra thật là một phước lớn. Và nếu nó xảy ra hơn hai lần, thật là 1 điều kỳ diệu. Lúc nó xảy ra đúng là tuyệt đỉnh!
Phần VIII: Thử Nghiệm Bệnh Lý Trị Liệu (Clinical Trial)
Phải mất 4 năm nữa, thử nghiệm qua các con vật, thuốc Endostatin mới sẵn sàng để thử vào con người. Nhưng chuyển từ vật sang con người vẫn còn là 1 điều bấp bênh trong việc phát triển thành thuốc.
Trở lại trường hợp hai bệnh nhân, John Matt và Duane Gay. Chỉ sau 6 tuần uống thuốc, John Matt đã được lấy ra cuộc thử nghiệm. Ung thư của anh vẫn lan, và nhiều biến chứng xảy ra. Bốn tháng sau anh qua đời tại nhà riêng, có gia đình bên cạnh. Nhưng những gì anh để lại cho khoa học thì còn tồn tại mãi mãi.
Giai đoạn thử nghiệm đầu phát sinh nhiều câu hỏi: Phải chăng ung thư cúa các bệnh nhân này đã vào thời kỳ cuối cùng? Hay loại ung thư này không thể sử dụng thuốc đó được? Liều thuốc Endostatin chưa đủ chăng, có nên cho liều thuốc lớn hơn không . Hay là cho vào cơ thể bằng cách khác?
Vậy là các bác sĩ phải trở về nhìn những các manh mối mà các bệnh nhân đầu đã để lại, và từ đó tìm ra liều thuốc và phương cách có kết quả tốt đẹp hơn.
Với trường hợp của Duane Gay, thì anh đã vào cuộc thí nghiệm được nửa năm. Đã đến lúc xét coi anh có thể tiếp tục cuộc chữa trị nữa chăng. Thời gian này đối với Duane bao giờ cùng làm anh hồi hộp, lo âu.
Qua các hình chụp quang tuyến, bác sĩ Thomas cho biết các bướu nhỏ trong người anh ngưng tăng trưởng, tuy không nhỏ lại . Chỉ có 1 bướu lớn thì hơi to ra, và không có bướu mới. Bác sĩ quyết định cho anh uống tiếp thuốc Endostatin thêm 8 tuần nữa .
Đối với bệnh nhân như Duane, tình trạng ổn định như vậy là 1 chiến thắng lớn. Thế là với niềm hy vọng tràn đầy, Duane cùng vợ, dọn vào nhà mà họ hằng mơ ước. Năm đó, họ đã có cùng nhau hưởng một giáng sinh mà họ tưởng khg bao giờ có được.
Kinh nghiệm của trường hợp Duane cho thấy Endostatin tượng trưng cho bước đầu để các y sĩ thay đổi cách chữa trị ung thư.
Theo B.S. Don Ingber thì Endostatin mở đường cho tương lai chế ngự bệnh ung thư, thay vì chữa trị dứt căn bệnh này. Tựa như bệnh ho lao mấy năm về trước, chưa là 1 cách chữa trị, dứt hẳn bệnh ung thư, nhưng chúng ta có thể kiềm chế nó. Rồi thêm vài năm nữa, khoa học tiến bộ thêm, căn bệnh chỉ là một phần nhỏ trong đời sống chúng ta, chứ không còn là nỗi lo sợ lớn nữa.
Ngày nay ngoài Endostatin, có khoảng 20 chục thứ thuốc đang trong thời kỳ thử nghiệm y tế, các thuốc này có tính cách ức chế sự cấu tạo của mạch máu. Người ta bắt đầu thử vào các bệnh khác nữa, ngoài bệnh ung thư ra.
Bác sĩ Folkman: Nhìn vào các bệnh khác, có những bệnh cũng lệ thuộc vào sự cấu tạo của máu - angiogenesis, như các bệnh đau khớp xương (arthritis), psoriasis (bệnh da gây nên những đốm đỏ), những bệnh thái hoá và nhiều nữa .
Bruce Zetter: Ngày nay trên thế giới, nhiều phòng thử nghiệm, các khoa học gia đang nghiên cứu về chất ức chế angiogenesis. Hàng tháng nhiều chất ức chế mới được tìm thấy. Các chất sẽ được dùng trong nhiều phương thức mới lạ . Người ta sẽ phối hợp nọ với nhiều cách thức mà chúng ta chưa nghĩ đến.
Trong năm đầu tiên thử nghiệm y tế của thuốc Endostatin, có 61 bệnh nhân được truyền thuốc. Khi liều thuốc được tăng lên, thì sẽ thấy ngay ảnh hưởng của nó trong cơ thể, để bác sĩ quyết định có nên tiếp tục truyền thuốc hay không. Trong tương lai, liều thuốc càng tăng nữa, cộng thêm nhiều phương cách dẫn thuốc vào người bệnh nhân sẽ được thử nghiệm.
Trong công cuộc tìm kiếm 1 tương lai tốt đẹp hơn cho bệnh nhân ung thư, bác sĩ Folkman đã sáng lập ra một ngành y khoa mới và hùng mạnh. Ngày nay hàng ngàn các nghiên cứu gia trên thế giới đang nghiên cứu về angiogenesis. Và bác sĩ Judah Folkman không còn là một dũng sĩ cô đơn trong cuộc chiến chống ung thư nữa .
* * *
Lời người kể chuyện: Một thời gian ngắn sau khi chương trình được trình chiếu, Duane Gay được lấy ra khỏi chương trình Endostatin. Bướu ung thư anh đã lớn hơn thể dạng mà trường y khoa Wisconsin cho phép. Hiện nay anh được truyền thuốc ức chế angigogenesis khác, và anh hy vọng sẽ trở lại với Endostatin khi lệ luât (của trường) cho phép.
Ghi chú: tvmt dùng chữ truyền thuốc vì trong video thấy họ cho thuốc vào portacat của bệnh nhân, giống như truyền thuốc cho hóa trị. Portacat là 1 dụng cụ được bỏ vào người bệnh nhân và gắn qua tĩnh mạch. Dụng cụ sẽ giúp cho hóa trị được chuyền vào dễ dàng và ít gây trở ngại. Tĩnh mạch sử dụng nhiều lần quá sẽ bị chết, tay bệnh nhân bị bầm
tím hết.
Ghi chú 2: tvmt thay chữ Clinical trial bằng "Thử nghiệm bệnh lý trị liệu" thay vì "Thử nghiệm y tế", theo đề nghị của bác Le Thu, vì họ thực sự làm 2 việc cùng 1 lúc là thử nghiệm và trị bệnh. Chữ thử nghiệm y tế là chữ của Hội Ung Thư Việt Mỹ.
http://www.ungthu.org/vacf/cacbenhungthu/ungthuvu_03.asp
Được biết bên VN dùng chữ "Lâm sàng", không hiểu rõ nguồn gốc.
Muốn tìm hiểu thêm xin vào website của The Cancer Warrior:
http://www.pbs.org/wgbh/nova/cancer/program.html
Tran Viet Minh Thanh
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen