
NGHĨ ĐẾN MẸ, SAU NGÀY CỦA MẸ
Hoàng Ngọc Nguyên
Trong những Ngày của Mẹ ở Mỹ, khi nhìn sự chen chúc tấp nập ở những quán ăn Mỹ hay Việt tràn ngập những người con náo nhiệt đưa cha mẹ đến những bữa tiệc họp mặt để làm tròn bổn phận của mình với mẹ, tôi thường suy nghĩ nhiều hơn, không chỉ nghĩ đến những người mẹ cả đời chỉ sống vì con cái, vui hay buồn, hạnh phúc hay đau đớn, thư thái an tâm hay mất ăn mất ngủ chỉ vì những biến động trên đời của từng đứa con, mà những người phụ nữ phi thường không chỉ trong vai trò làm mẹ mà còn làm vợ, làm con, gánh vác những công việc từ ba trách nhiệm này luôn luôn chĩu nặng trên vai, sự lo lắng bao giờ cũng tràn ngập trong trí. Không thiếu những người đàn ông nghĩ lại có những lúc quên rằng mình còn có vợ với những tình nghĩa sâu đậm, còn có con với những trách nhiệm lớn lao phải gánh, còn có cha mẹ già mà niềm vui trong cuộc sống chỉ còn ở sự thăm hỏi, “chiếu cố” của con cái vài ngày trong tuần. Tuy nhiên, người phụ nữ Việt Nam, “bẩm sinh” không có cuộc đời riêng như đàn ông, họ chỉ có cuộc đời cá nhân quyện vào đời của chồng, của con, của cha mẹ, và chữ cha mẹ đây không chỉ giới hạn ở đấng sinh thành của mình mà còn cả của chồng, khi họ được “tín nhiệm” việc gánh vác giang san nhà chồng – nhất là những khi chồng phải đi lính, hay đi theo kháng chiến, hay đi học tập, chưa kể những trường hợp quá ham mê sự nghiệp và tệ hơn nữa là bỏ bê gia đình…
Người phụ nữ nào cũng đáng quí trong chức năng trong gia đình của họ, những nguời sáng ngời trong đức hy sinh - đó là điều chúng ta đã thấy được từ Âu sang Á, từ Mỹ sang Phi. Và khi đề cao Ngày của Mẹ, đó là một sự vinh danh xứng đáng cho những phụ nữ có con tim như người đàn bà trong Anh Phải Sống của Khái Hưng. Tuy nhiên, đối với những người Việt thuộc thế hệ “trẻ em thời nhân mãn” (baby boomers), nay tuy đã già, người lớn cũng phải tuổi Bính Tuất, người trẻ cũng phải Qúy Tỵ, nhưng hơn tất cả mọi người họ có dư lý do để nhân dịp này chúc thọ Mẹ hay vài tháng tới trong mùa Vu Lan có thể Bông hồng Cài áo. Bởi vì đó là những người mẹ phi thường đã sống lâu dài hơn bất cứ người mẹ nào khác còn trên cõi đời này, đã chịu nhiều thử thách trần ai hơn bất cứ người mẹ nào khác có thể kể ra trong đời mình với những biến động lịch sử, chính trị, xã hội dồn dập không thể tưởng được trong một đời người ngắn ngủi, và vì chồng vì con chẳng có ai chịu đầu hàng trước hoàn cảnh, số phận.
Như bà mẹ làng Nhan Biều đã từng bắt đầu cuộc đời làm vợ, làm mẹ khi Đệ nhị Thế chiến chưa nổ ra, và từ đó đã vượt qua biết bao thác ghềnh cùa định mệnh đất nước, cho đến khi hết chiến tranh và hòa bình đã lập lại nhưng vẫn còn thấy sự nặng nề trước những cơn triều của lịch sử. Bả đã sống trong những ngày ngột ngạt của một đất nước chăng ai ngồi yên được với ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Sau năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp, ta vẫn gọi là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ, bao nhiêu thanh niên đã bị cuốn vào cơn lốc lịch sử đó, và biết bao nhiêu gia đình chuyển qua chế độ “mẫu hệ”, một mình “vườn rau êm đốn, mẹ già em trông”. Những hình ảnh của thời đó có thể còn ghi rõ mồn một trong trí nhớ đã làm việc gần cả cả chín thập niên không nghỉ của một thời bế bồng tản cư, tất tả chạy loạn, bố ráp của lính lê dương, bỏ con trong gánh lên chiến khu thăm chồng…
Hồi cư về thành phố, đời sống an bình hơn, cuộc mưu sinh đỡ vất vả hơn là cuộc đời cày sâu cuốc bẩm, nhưng vào thời đó người vợ xa chồng, người mẹ ôm một đàn con năm đứa khó mà không chìm trong nỗi buồn man mác mỗi khi cầm đến đàn mandoline mà hát “nhưng mỗi khi dưới mái nhà thênh thang, ngừng chơi nắm tay mẹ hỏi rằng, rằng cha chúng con đâu, về mua bánh cho con mẹ ơi…” Cuộc sống nghèo túng, chật vật, nhưng người ta sống một thời mà con người không có nhiều nhu cầu vật chất, cuộc sống tinh thần phong phú trong nội chờ đợi lãng mạn, và người mẹ từ đó đã biết làm việc với thời khóa biểu từ khi mở mắt dậy buổi sáng tinh sương cho đến khi sẫm tối sau khi con cái đã vào mùng. Cái nếp đầu tắt mặt tối đó đã có có lẽ từ khi về nhà chồng, và chính là nhờ thế mà con cái không đứa nào phải bỏ học dù phải sống trong thành phố đất cày lên sỏi đá đó.
Rồi chiến tranh chưa hết, vào một đêm từ bên kia giới tuyến người chồng đã trở về, người cha cũng về, và cũng như nhiều người khác ở miền trung khô cằn khó sống này, gia đình xuôi nam để tìm đất sống. Cuộc đời mới như đã mở ra từ đây, bắt đầu từ những xóm nghèo lao động ở Nancy, ở Nguyễn Tấn Nghiệm, xóm nghèo nhưng chung quanh với những người “di dân” từ tứ xứ không thiếu tình người. Trong con hẻm này, vào mùa nắng, nóng như thiêu đốt phải đi gánh nước về dùng; vào mùa mưa, nước trong nhà dâng lên, lội bì bõm và tranh nhau tát nước ra khỏi nhà mà vui. Bà mẹ đã cùng người cha dựng lại gia đình từ đó với nếp chịu thương chịu khó, lao động cẩn cù, cuộc sống tiện tặn, một nếp sống gia đình quay quần đùm bọc nhau trước những khó khăn của xã hội mới là những ngày đẹp nhất của tất cả mọi người. Người cha đi lãnh hồ sơ kế toán và đi dịch phụ đề cho các phim để kiếm thêm tiền ngoài đồng lương công chức, mẹ chơi hụi không kể siết.
Trong cái xã hội cũ của miền Nam của những năm đầy “Mộng Lành” trong những “Xóm Đêm”, điều sâu đậm nhất những người miền nam bất kể nguồn gốc nào cũng còn có thể nhớ là không có sự phân biệt giai cập nào có thể đóng sầm cánh cửa đi lên của những người có khát vọng đổi đời. Đó là một xã hội cho phép người ta hy vọng, cho phép người ta phấn đấu. Cái xóm lao động đó đã nhanh chóng lùi dần trong quá khứ, như thể hành khách ngồi trên xe trong những chuyến đi Đà Lạt bỏ lại nhanh chóng đàng sau những xóm làng đã lướt qua. Và cả ông và bà cứ thế đùn đẩy gia đình đi lên, chẳng ai thấy gánh nặng nào trong cuộc sống. Từ Đà Lạt lại về lại Saigon, từ Đặng Tất lại lên cư xá Nông Tín, nhà cửa ngày càng đông vui vì có bên nhà chồng, bên nhà mình, từ ngoài trung tìm vể “ánh sáng miền nam”.

Thế nhưng chiên tranh trở lại, chính trị suy đồi, xã hội chìm trong những cuộc bể dâu. Người đàn ông khi không còn phải lo chuyện lính tráng và cũng chẳng màng gì thế sự thăng trầm ngoài đời, họ chẳng có gì lo nghĩ. Nhưng khi người đàn ông đã bước vào tuổi không còn gì lo nghĩ, đó là lúc người đàn bà, người mẹ, người vợ, ngưởi con, phải lo nghĩ nhiều nhất với những đêm dài mất ngủ vì đắm trong nhiều nỗi lo toan, ưu phiền, căng thẳng. Vì đó là lúc ý thức hiếu đạo nơi người con đối với cha mẹ đã trở thành ám ảnh tôn giáo để tạo phước đức. Đó là lúc người mẹ bị bủa vây bời những vấn đề của con cái, càng đông con thì hình như cái nghiệp càng nặng hơn, càng xa chồng hơn mà chẳng thực sự được gần con nhiếu hơn khi chúng lớn lên với thế giới riêng tư của mình. Con cái ở nhiều lứa tuổi khác nhau, nhưng chẳng đứa nào mà không lo. Đứa đang còn đi học cũng lo, đứa đã lên đại học cũng lo. Đứa ở gần cũng lo, đứa ở xa bên Anh, bên Pháp cũng lo. Đứa chưa có gia đình thì lo cho nó sẩy chân trên con đường tình cảm. Đứa có gia đình thì sợ nó không biết giữ gia đình. Có con trai thì lo cho chuyện lính tráng của nó, có con gái thì lo cho chuyện lính tráng của rễ… Và điều cuối cùng bà làm trong ngày là thắp hương và khấn vái trước bàn thờ Phật cầu nguyện những việc quá sức người.
Là người vợ hay người mẹ thì chỉ biết chuyện nhà ít khi biết chuyện ngoài đường, hiểu được chuyện ngoài xã hội. Thế nhưng sau 1975 gần kề cái tuổi sáu mươi đó, cũng như tất cả mọi người bà phải bước vào một xã hội mà chẳng ai chuẩn bị “học tập” gì để biết nó, hiểu nó, và thích nghi với những nề nếp giả tạo không thể thich nghi đuợc. Thời thế đã ngoài tầm của bà nhưng bà vẫn phải lo. Lo cho thằng con trai “ngụy quyền” đi học tập 10 ngày mà mãi vẫn chưa về để cho con dâu của mình phải ôm bốn đứa như mình dã từng ôm năm đứa. Lo cho thằng con trai út phải bỏ trường để đi làm “nghĩa vụ quân sự” ở Dương Minh Châu. Lo cho những đứa con gái phát điên vì bỗng chốc thấy bao quanh toàn là những người mường, người mán… Tuổi trẻ Saigon khi chuyển qua tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một sự dồn nén, ức chế của một cơn điên loạn trong gia đình ngoài sức kiểm soát của một người mẹ đã bất lực không chỉ vì tuổi tác, nhưng vẫn còn phải cố kiểm soát bằng sự van vái mong đợi ở sự từ bi của Đức Phật.
Nay bà đã 90 – trong dịp này. Càng về già người ta càng hiểu thêm nhiều chuyện đau đớn của kiếp sống. Bà là người nhậy cảm. Bà có nhiều anh chị em thuộc đến bốn dòng. Chỉ nhìn đến những con đường đi riêng của mấy chục người này và con cháu của họ bà đã thấy được màu tang thương của bức tranh vân cẩu. Huống chi bà lại có đến 10 đứa con mà bà là một bà mẹ vừa có thể tự hào hiểu con mình từng đứa một rất nhiều nhưng trong thâm tâm bà cũng phải thú nhận rằng mình không bao giờ có thể hiểu hết. Trong nỗi tuyệt vọng nhìn vào cái “nghiệp” của con người trong cuộc sống, bà thường nhớ lại một cách minh mẫn lạ kỳ dòng đời của từng người trong đời của bà, từ cha mẹ của mình, cha mẹ của chồng, anh chị em, con cái, cháu chắt. Bà chỉ còn nỗi vui duy nhất là con cái còn thương, còn tìm cách thay phiên nhau đến với mình, cố chăm lo mình trong một nước Mỹ mà con cái thường nhường cho xã hội nhiệm vụ cao cả với người lớn tuổi. Nghĩ lại cuộc đời, bà thấy tất cả đều là phù du, chẳng thể nào xác định được cái gì nhiều hơn với con người trong cuộc sống: những thành công hay thất bại của các con, những hạnh phúc hay đổ vỡ, những cái được cái mất. Bà cố suy nghĩ về chuyện nhân quả, nghiệp chướng, và cảm thấy ít nhất trong cả cuộc đời không có gì riêng của bà, bà đã giữ được cho con cái được có điều tối thiểu của con người là sống đàng hoàng và lương thiện. Ba không còn nỗi lo của những ngày xưa. Nhưng bà vẫn còn day dứt trong những nỗi thương xót khi nhìn đến mấy lớp về sau nữa, những đứa cháu, đứa chắt, bởi bà hiểu thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, con người càng ngày càng xa dần quá khứ của mình, và cứ phải lầm lũi bước lui mà cứ tưởng mình đang đi tới.
Từ xa tôi nhìn đến San Jose, tưởng rằng như thấy được cả 90 năm bà mẹ Nhan Biều này đã trải qua. Làm sao trong Ngày của Mẹ người ta có thể dễ dàng để trôi qua bằng một cuộc họp mặt nhưng không ngoái nhìn lại những điều rất đơn giản nhưng phi thường nơi người đã gầy dựng nên mình ngày nay?
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen