Love at first sight. Tôi yêu mến Paris từ lần đầu tiên tôi đến với Thủ đô Ánh sáng năm 1973, thế mà mãi đến 35 năm sau mới có dịp trở lại do một tấn bi kịch trong gia đình. Đường bay thẳng chỉ cẩn gần 10 tiếng để nối liến Salt Lake City với Paris. Chuyến bay trong đêm, cảnh tượng chung quanh sẫm tối, hành khách ít qua lại, một vài ánh đèn hiu hắt của những người đang đọc sách báo để dỗ giấc ngủ. Đi Paris mà lòng tôi chẳng gợi được một tí nào nao nức. Thay vào đó là một nỗi ân hận, day dứt không dứt được.
Lần cuối tôi gặp em tôi cách đây sáu năm. Nó từ Pháp qua Mỹ cùng với cả gia đình - vợ và ba con gái. Đứa nhỏ nhất chỉ mới năm hay sáu tuổi vào lúc đó. Đứa lớn nhất cũng phải 22, 23. Đã lâu lắm tôi mới được gặp lại em tôi. Và qua lần gặp gỡ này, tôi chiêm nghiệm ra ở mỗi người một khát vọng đổi đời có người nung nấu nhờ còn ngọn lửa có người nguội lạnh vì sự mênh mông của nghiệp chướng. Tôi vẫn mừng cho em đã tiến vào được hướng ổn định đời sống, củng cố gia đình, xây dựng được một mái nhà đủ ấm áp cho hạnh phúc bên vợ bên con.
Đó là lần cuối tôi gặp nó. Tôi từ lâu hiểu rằng nó bị viêm gan cấp tính. Từ hai năm qua, căn bệnh này đã chuyển qua ung thư. Tôi mù mờ vừa nghĩ đến chuyện phải đến vừa bấu víu vào những hy vọng vu vơ, hão huyền. Gần đây, tôi cảm nhận được nó đang chiến đấu rất quyết liệt với số phận, sự tiều tụy, tiêu hao nơi con người của nó đến quá nhanh. Bên cạnh nó ngoài một gia đình phải chật vật xoay sở là ông anh và bà chị dâu của tôi đã chăm sóc, hỗ trợ việc điếu trị của nó thường xuyên, chặt chẽ. Bao nhiêu anh chị em từ Mỹ, từ Đan Mạch đã đến với nó trong những lúc cực kỳ đau đớn, lo sợ, đầy ác mộng này.

Một quintette ở Trường Quốc gia Âm nhạc Saigon, 1971.
Từ trái qua phải: Nguyễn Khánh Hồng (violon), Nhạc sĩ
Nghiêm Phú Phi, Cao Xuân Ái Minh (piano)Bu (violon) –
Nguyễn Khánh Kinh (violon) và Hoàng Ngọc Hỷ (violon).
Tôi chỉ mới hứa “thế nào anh cũng qua thăm em”. Lời hứa thành lỗi hẹn. Trong đời nếu ta nhìn lại, có biết bao cái lỡ hẹn đã thành những mất mát to lớn không tìm lại được. Như lần lỡ hẹn não lòng này. Tôi đến nhà quàng ở thị trấn Blois này khi em tôi đã nằm đó được hai ngày. Có một nét gì gần gũi quá chừng của những anh em cùng huyết thống khiến cho tôi vừa nhớ đến cả cha tôi đã đi cách đây ba năm vừa thấy như người nằm đó có thể là cả mình, và cũng có một nét gì xa lạ trên khuôn mặt bị hóp đi nhiều hai bên má, sạm đi nhiều chỗ, đổ qua một bên, khiến cho tôi không thể nhận ra được đứa em thân yêu và tài hoa của mình.
Em mất ở tuổi 53, có thể không hẳn là tài hoa mệnh bạc. Nhưng sự gian truân có lúc thì nó tự tìm đến có lúc thì đeo đuổi nó trong quãng đường đầu đời. Nó nằm đó, tưởng như đã bình thản. Nhưng anh tôi bảo phải thấy nó trong những giờ phút cuối cùng mới thấy được cái hung ác của tật bệnh ung thư không cho bất cứ ai cái ân huệ cuối cùng. Anh bảo có thấy nó trong giây phút đó mới thấy may thay mà nó đã đi được.
Trong những năm cuối của cuộc đời, ngay cả trước khi biết được mình mắc phải chứng nan y, em dẫn cuộc sống của mình theo ánh sáng của đạo Phật. Ở Paris bây giờ, mọc lên ngày càng nhiều ngôi chùa nguy nga, tráng lệ, nhưng có lẽ lại không có đủ thầy chùa (tu sĩ) để lo việc đạo mà có đông thầy cúng và các nữ đệ tử lo việc đời. Trong biển khổ mênh mông này, nhìn đâu cũng thấy Phật, mà đâu đâu cũng là nghiệp chướng. Thứ nhất là tu tại gia, em ở nhà tìm hiểu sự sâu xa trong những lời Phật dạy, đọc kinh kệ, và dường như có phép lạ của ơn Phật, nên càng ngày em càng trở nên day dứt nhiều hơn trước nghĩa mẹ chưa đền, hiến hòa với anh chị em, tha thiết với đời, chăm chút với gia đình… Nhưng phép lạ chỉ ngừng ở đó!
Em chắc chắn không bình thản ra đi. Bình thản sao được khi không biết cái gì chờ đợi nó sau khi trút hơi thở cuối cùng, và những gi nó để lại như một số phận dang dở không chừa một ai. Có ai thực sự nhắm mắt được khi nghĩ đến vợ con ở lại với những lo toan thêm chồng chất. Có ai nhắm mắt được khi còn một mẹ già gần 90 vẫn còn mạnh mẽ nhậy cảm trước sự đau đớn bất hạnh của con và cả của từng đứa cháu nội, cháu ngoại. Và khi đã quen với một nếp sống có anh chị em quây quần và đùa giỡn như những ngày xưa ở Đặng Tất, ở Trương Minh Ký, ở Trần Quí Khoách hay ở Trương Minh Giảng… Làm sao có thể đành tạm từ bỏ thế giới này khi còn những mối đam mê quay quắt với âm nhạc, với phim ảnh, với sách báo, với tiểu thuyết Kim Dung, hay vẫn còn thèm thuồng từng tô bún bò, tô phở, hay bánh đậu xanh, bánh da lợn… Nếu định mệnh con người là dang dở, đừng nên cho rằng có ai đó sẽ thực sự thanh thản ra đi.
Ngày em về làm cát bụi, không có một nghi thức tôn giáo nào. Ngày hôm trước, thầy cô đã tới, hối hả đọc vài bài kinh chú đại bi, địa tạng, cầu siêu, rồi cũng hối hả trở lại Paris, không kịp có cả một lời thăm hỏi, chia buồn. Hôm nay đây em thành tro bụi, thầy e rằng đường xá xa xôi hơn trăm cây số, không bỏ. Nhưng từ buổi lễ tiễn đưa tưởng như vô thần đó đã nổi lên ấm áp đạo làm người, một niềm tin ai cũng có thể chọn. Chẳng hạn như ông chủ của nó, lòng từ tâm trước một nhân viên mắc chứng nan y và hảo tâm với chuyến ra đi của nó xứng đáng là câu chuyện ta có thể kể cho nhau nghe.
Nó ra đi, tiếng nhạc tiễn đưa nhẹ nhàng lan trong không khí, The Bread với bài Aubrey. Từ một nếp bắt đầu bằng ông anh cả, mười anh em chúng tôi bao giờ cũng tìm sự đồng cảm trong những giòng nhạc xác nhận sở thích, thị hiếu của chúng tôi là một. Văng vẳng tôi còn nghe những giòng nhạc đau đớn, buồn rầu từ Cát Bụi, từ Phôi Pha. Ôi phù du, Từng tuổi xuân đã già, Một ngày kia đến bờ, Đời người như gió qua…
****
Đến Paris vào năm 2008, người ta không khỏi nhớ lại Paris 1968, tuy rằng bây giờ là tháng bảy, không phải là tháng năm của 40 năm trước đây, khi thủ đô nước Pháp đang hừng hực trong ngọn lửa đấu tranh của thanh niên đang công phá trật tự cũ nhưng chưa hình dung được trật tự mới là cái gì. Tháng năm năm nay, ở Paris và nhiều thủ đô châu Âu, người ta tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị để xem lại những ngày tháng ấy đã để lại những dấu ấn gì trong lịch sử nước Pháp. Tuy nhiên, hỏi những người trẻ tuổi ở Paris bây giờ có biết Daniel Cohn Bendit là ai, có thể không ít người ngẫn ngơ. Lịch sử ngày càng ít gây vướng bận cho giờ thanh niên bây giờ, bởi vì trong lối sống của ngày nay, người ta chỉ quen nhìn tới trước để khỏi bỏ lỡ cơ hội. Dòng lịch sử nhiều khi nhanh hơn cả dòng đời. Người ta không kịp nhớ chuyện ngày xưa vì chuyện ngày nay có thể đến nhanh quá, dồn dập quá. Nhưng nguời ta cũng không thể, và không dễ gì quên năm 1968 đó, một năm “sắc như lát dao đã cắt lìa quá khứ khỏi tương lai, thuở xưa và thời nay”.
Người ta lâu nay vẫn nhận định năm 1968 là “năm thay đổi cả thế giới”. Trước hết, đó là năm vận hạn lớn của Hoa Kỳ. Bên ngoài, cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của Cộng Sản Bắc Việt ở miến Nam Việt Nam và vụ Bắc Triều Tiên bắt giữ tàu gián điệp của Mỹ trong hải phận Triều Tiên làm cho Mỹ phải nhìn lại toàn bộ chiến lược đối ngoại nói chung và chuyển qua hướng “giải kết” đối với cuộc chiến tranh Việt Nam nói riêng. Trong nước, mặt trận phản chiến tại các trường đại học càng thêm sôi động, hai vụ ám sát lãnh tụ dân quyền Martin Luther King vào tháng tư và ứng cử viên tổng thống Thượng nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng sáu, dẫn đến một Đại hội đảng Dân Chủ hỗn loạn, bạo động ở Chicago. Nước Mỹ phải thay đổi – đó là mệnh lệnh lịch sử mạnh mẽ năm 1968 đã nói lên. Trong khối Cộng Sản châu Âu, người ta cũng thấy có một lời cảnh cáo nghiêm trọng tương tự trong năm 1968: thay đổi hay là chết. Lời cảnh cáo đó là “Mùa xuân Prague” ở Tiệp Khắc, nhưng xe tăng Liên Xô đã nói lên sự lựa chọn diệt vong.
Liên quan đến người Việt trong những biến động làm rung chuyển toàn cầu này là Tết Mậu Thân. Đó là khúc quanh lịch sử của cuộc chiến Việt Nam, là sự phơi bày bản chất thảm họa nơi những người lãnh đạo chính trị của miền nam. Lời cảnh cáo của biến cố Tết Mậu Thân năm 1968 cũng nghiêm trọng đối với miền nam: Thay đổi hay là chết. Nhưng lời cảnh cáo đó đã không có người nhận, cho nên năm 1968 sẽ ám ảnh mãi đối với rất nhiều người tha hương đã từng có kinh nghiệm với Mậu Thân.
Những người Pháp chào đời trong những năm sau Đệ nhị Thế chiến có thể nhớ trong năm 1968 đó Tổng thống De Gaulle đã bị choáng váng mặt mày trước phán quyết lịch sử về triều đại của ông qua m ột những ngày tháng năm mùa hè chìm trong giông bão chính trị. Người ta nói thời đại tổng thống như vua ở Pháp đã cáo chung với sự hạ bệ của một thần tượng anh hùng là ông đại tướng. Nhìn lại những gì xảy ra trong năm đó tại Pháp, có lẽ sự rậm rực của tuổi trẻ ở các nước phương tây qua sự lan rộng nhanh chóng của các cuộc biều tình phản chiến, khiến cho thanh niên Pháp cũng muốn bắt chước xuống đường. Đó là thời tuổi trẻ phản kháng để tìm nhân dạng mới cho mình. Chẳng bao lâu sau đó, Tổng thống DeGaulle phải tổ chức bấu cử, và lạ lùng thay người Pháp chợt nghĩ lại, nhờ thế đảng của DeGaulle thắng lớn. Tuy nhiên, người ta vẫn nói nước Pháp đã sống một cuộc “cách mạng văn hóa” trong tháng 5 năm 1968 đó: người dân không còn xem những người lãnh đạo chính trị là “không đụng đến được” nữa.
Nhiều người cho rằng năm nay cũng sẽ là một năm làm nên lịch sử. Người ta nhìn đến cuộc khủng hoảng toàn diện ở Mỹ và thấy sự tơi tả của George Bush 2008 có lẽ còn tệ hơn Lyndon Johnson 1968, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang thúc giục sự tìm kiếm một trật tự mới ở từng nước và trên bình diện toàn cầu, chưa nói đến những thách đố có tính thời đại đến từ những thế lực như Hồi giáo (Iran và al-Qaeda) hay tư bản toàn trị (Nga, Trung Quốc). Cuối năm nay, Barack Obama sẽ có thể là tổng thống thứ 44 của nước Mỹ - người da đen đầu tiên trong lịch sử Mỹ ngồi ở Nhà Trắng. Biết bao nhiêu dấu hiệu năm 2008 sẽ là một năm như 1968. Người ta có thể cũng sẽ viết lại: “2008 had the vibrations of earth quake about it…”
Nước Pháp năm nay không có dấu hiệu gì của một mùa hè năm 1968. Nhưng người ta nói chẳng cần đông đảo người xuống đường mới có cách mạng. Ở Pháp chỉ có hai người cũng đang phá vỡ những “trật tự” xưa cũ. Tổng thống Nicolas Sarkozy đã chứng minh một điều: người chủ nhân Điện Elysees không phải là một người con trời được tạo ra để quên mình và tập trung vào việc dân, việc nước. Ông tổng thống trước hết phải là một con người bình thường, rất bình thường, đa tình đa cảm, với ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống vẫn là những “thôi thúc, động lực rất cá nhân bên trong. Ông đã qua ba đời vợ, hai người sau là “celebrities” trong xã hội Pháp. Người thứ ba, Carla Bruni, ông chỉ mới quen ngay sau khi thôi người thứ hai vài tháng sau khi ông đắc cử tổng thống. Ở Mỹ, người ta thường nói khi sinh ra một đứa con trai, người mẹ nhìn trẻ trong nôi mà âu yếm nói: “Lớn nhanh con nhé. Một ngày nào đó con có thể là tổng thống nước Mỹ”, để nói lên một xã hội khoáng đạt, cơ hội mở ra đồng đều cho mọi người (chỉ trừ cho những người không có cơ hội!) – ngay cả cơ hội làm tổng thống. Ngày nay, với trường hợp của Carla Bruni, ca sĩ, người mẫu, một phụ nữ có cuộc sống “tự do” tuyệt đối cho đến khi gặp Nicolas, những bà mẹ khi sinh con gái cũng có thể âu yếm nói với đứa trẻ trong nôi: “Lớn nhanh con nhé. Một ngày nào đó con cũng có thể là Đệ nhất Phu nhân nước Pháp đấy con ạ!”. Nhìn Carla Bruni gợi cảm trên quảng cáo ngoài đường phố, bên cạnh bà hoàng Grace Kelly quí phái của Monaco, người ta thấy người Pháp thật dễ dãi!
****
Từ một góc nhìn rất nhỏ trên đường Brune ở quận 13 cùng với sự eo hẹp của thời gian, tôi chẳng khám phá thêm được gì nhiều về Paris, nhưng có lẽ cũng như nhiều người từng yêu thích thủ đô ánh sáng ngay từ lần đầu đặt chân đến đây, tôi ngồi nhìn xuống phố từ lầu hai của một tòa nhà cao tầng và cảm thấy chẳng có gì thay đổi mấy so với Paris tôi biết vào những năm 1973-74! Có thay đổi chăng là bây giờ Paris tháng bảy năm 2008 sạch hơn, sáng hơn, chậm rãi hơn Paris tháng chạp năm 1973 đang vội vàng sống những ngày cuối năm. Rõ ràng là xe điện chạy trên đường rai nay trông hiện đại hơn trước rất nhiều, và cả xe buýt không thấy cảnh chen chúc tấp nập giống như xe buýt ở Saigon thời những năm 50 và 60 khi nhiều người đi làm, đi học đều trông cậy vào ô-tô-buýt xanh, ô-tô-buýt vàng.
Đã hẳn có những thay đổi nhưng không gây choáng ngợp cho nên người ta vẫn thấy thân thuộc. Như khi đi vào một tiệm sách cũ (có bao nhiêu tiệm nằm trên khu phố nhỏ bé này?), lại nhớ khu bán sách cũ ở Saigon dù rằng những kiosque sách trên đường Ngô Đức Kế chẳng thấm vào đâu so với một tiệm nhỏ nhất ở đây. Sách trong một tiệm góc phố chất cao như núi, tràn lan như rừng, để đầy cả phòng trong, phòng ngoài, trên tầng chính cũng như tầng hầm, tưởng như vô thứ tự nhưng ông chủ tiệm dường như biết rõ hết theo cái thứ tự của ông. Có điếu tôi biết chắc là cái văn hóa sách của ông uyên thâm hơn nhiều người, rất nhiều người, thủ thư ở một thư viện đại học bên Mỹ. Bên Mỹ, nguời ta mất nhiều thì giờ quá gõ trên computer và dán mắt vào màn hình máy vi tính, cho nên chẳng mấy ai còn đọc sách gì nữa cả.
Dạo chơi ban đêm ở một khu phố người ta vẫn đến để ngồi tràn ra vĩa hè uống cà phê nói chuyện gẫu, nhìn người qua lại và lơ đãng nghe những “nghệ sĩ nhân dân” trình diễn trên lề đường, tôi thoáng nghĩ rằng có lẽ một trăm năm nữa hay hai trăm năm nữa, nơi này vẫn thế và người ta vẫn thế. Bởi vì gần 40 năm sau khi tôi đến đây lần đầu, nơi đây vẫn thế và con người vẫn thế. Có một cái thú, và cả một cái cần của con người ở dây, thuộc mọi lứa tuổi, ngồi ở những quán bàn ghế bày tràn ra đường, hay từ bên trong ngồi nhìn ra đường phố, như ở Givral, ở La Pagode, ở Brodard, hay cả Continental… để quan sát và tìm những cảm hứng dễ dãi trong cuộc sống.
Thành phố này có lẽ vẫn thế và con người ở đây vẫn thế, những sắc dân có thể đến từ tứ xứ nhưng khi họ rảo bước trên đường phố, hay ngồi trong quán ăn hay bám vào những sợi dây vịn trên xe buýt, người quan sát có cảm tưởng như có một cái gì đồng nhất ở họ. Ở màu tóc đen. Ở những nét mặt thanh tao. Ở con người nhỏ thó, gọn gàng nhờ đi bộ nhiều và ít fast food. Ở trang phục. Họ rất khác những người tôi gặp trên đường phố ở Mỹ, có lẽ vì cái chất “đa văn hóa” ở Mỹ có tỷ trọng cao từ phía nam của nước này. Tuy nhiên, ở Paris bây giờ hình như có đông người Hoa hơn trước. Có đông người da đen di dân hơn trước. Đi giữa phố tàu ở quận 13, người Việt cũng đông, người Hoa càng nhiều hơn, chen chúc, vội vàng, hối hà, cảnh tượng giống Chợ Lớn hơn các phố tàu ở một vài nơi ở Mỹ.
Mấy chục năm trước, người Việt ở Paris chưa đông lắm và chưa thành một cộng đồng bao gồm nhiều thế hệ tiếp nối, già trẻ lớn bé. Bây giờ họ đã có thể là một xã hội nho nhỏ trong một xã hội lớn, nhưng người Viet ở đây sống thầm lặng hơn, có lẽ bao giờ cũng thầm lặng như thế, không ồn ào, không nổi bật, không làm mất cái yên tĩnh của một thành phố không có mấy khoảng trống cho sự huyên náo. Dĩ nhiên trong số đông những người Việt rời quê hương để mưu tìm cuộc sống mới, số người chọn nước Pháp là nơi đến không đông như ở Mỹ. Những điều kiện chính trị đến Mỹ dĩ nhiên dễ hơn đã đành. Và ảnh hưởng lối sống Mỹ qua gần 20 chiến tranh cũng có thể là lý do, dù rằng người Việt trước đó đã sống cả trăm năm với bánh tây, sữa bò, sâm banh của Pháp. Nhưng yếu tố quan trọng không kém là ở Mỹ người ta dễ sống hơn. Văn hóa “bao dung” hơn. Ngôn ngữ không bắt buộc. Ở Mỹ, vào nhiều chợ nghe người chung quanh nói chuyện “hola”, “gracias”, “adios” tưởng như lạc vào một mercado latino. Ở bên Pháp, người Việt nói tiếng Tây với nhau nhiều hơn gấp nhiều lần ở bên Mỹ người Việt nói tiếng Mỹ với nhau. Nhiều người ở Cali vẫn thấy hạnh phúc khi không phải phải nói tiếng Mỹ trong nhà và cả ra đường. Ở Paris kiếm được nhà văn nhà báo là hiếm, chỉ có nhà thơ còn có thể nhiều có lẽ vì không khí bàng bạc trong hồn của “Mùa thu Paris”, “Bên ni bên nớ” và “Tiễn em” - những bài thơ và bài ca bất hủ về Paris chưa thấy được sự thách đố của thời gian. Ở Mỹ trên chốn đất khách quê người này, đi đâu cũng có thể bất ngờ gặp phải nhà văn, nhà báo, nhà thơ. Và báo chí tiếng Việt tha hồ đọc, mấy khi phải mua. Và người Việt ở Mỹ cứ sống theo cách của mình - hầu như chẳng ai nói. Việc làm cho những người không có chuyên môn cũng dễ kiếm hơn, và cả những việc không chuyên môn của những người chuyên môn.
Ở Pháp người ta lo về cuộc sống bản thân và gia đình để sống còn nhiều hơn. Nguyên tắc tồn tại ở đây hầu như là chỉ có một văn hóa, một lịch sử , một ngôn ngữ. Người ta phải làm quen, phải hội nhập, phải hòa đồng, phải tự đồng hóa nhanh chóng để được chấp nhận. Cho nên ở Pháp di dân không phải ít, nhưng người ta ít thấy nét riêng của các sắc dân chung đụng mà nét chung hình như nhiều hơn. Nhưng dường như, càng tưởng như đã được đồng hóa chừng nào, con người di dân vẫn cảm thấy xa lạ, cô đơn chừng nấy. Hay đó chỉ là văn hóa L’Étranger của một thời.
****
Từ nhỏ đến lớn tôi lê la ở nhiều trường, ngay từ thời tiểu học: Nguyễn Hoàng Quảng Trị, Trần Bình Trọng ở Huế, Cầu Kho ở quận 1 Saigon, Xuân An ở dốc Nhà Chung Dalat, Tân Định ở đường Huỳnh Tịnh Của, Saigon. Vận nước trôi nổi đến thế là cùng! Lên trung học, tôi bắt đầu với trường Trần Lục, rổi trường Chu Văn An trước nằm bên chuồng ngựa đường Trần Bình Trọng, sau đối diện nhà thờ Cha Tam trong Chợ Lớn.. chưa kể từng đi học tư ở Hội Việt Mỹ đường Mạc Đĩnh Chi, trường đạo Trí Đức trên Dalat và trường Phật giáo Vạn Hạnh ở đường Hai Bà Trưng mà tôi là học trò lớp Anh văn của Hòa thượng Thích Quảng Độ! Sau đó tôi theo học Đại học Dalat, rồi trường Quốc gia Hành chánh, rồi có lúc học ở Anh, có lúc học ở Mỹ. Không kể hai năm (1975-77) từ Trảng Lớn đến Xuân Lộc và ngừng bước giang hồ tại Thành Ông Năm, Hóc Môn. Nhưng đâu là trường mẹ của tôi? Chu Văn An là nơi tôi học đến năm năm và còn biết bao nhiêu bạn bè từ đó. Nó cũng là nơi đưa cái chất Bắc Kỳ vào con người miền trung của tôi. Nhưng trước câu hỏi đâu là ngôi trường mẹ của mình, tôi khó có trả lời khác đuợc: Đại học Dalat vẫn là thời gian mà tôi có cảm tưởng vừa nuôi dưỡng tôi, vừa mở ra cho tôi con đường vào đời trong khi cũng như nhiều thanh niên lớn lên trong thời loạn lạc, nhìn vào tương lai như đứng trước một khu rừng cao su thăm thẳm ở Long Khánh.
Qua bốn năm trên viện mà tôi trải qua được thời gian đẹp nhất của tình yêu đẹp nhất dưới mái trường. Tôi vẫn tin rằng thế hệ của tôi là thế hệ cuối cùng còn may mắn hưởng được cái lãng mạn vô bờ của con tim tuổi trẻ. Nó là cái rất chung giữa tôi với một người đã ở bên cạnh tôi 40 năm nay trước khi kết nghĩa phu thê. Nhưng cũng nhờ Đại học Dalat mà tôi cũng hiểu được con người không thể sống tách rời khỏi xã hội và không biết đến chính trị. Qua hoạt động trong khuôn khổ của Hội Thanh niên Thiện chí Dalat với những người bạn đồng tâm, đồng chí như Trần Văn Minh, Nguyễn Khải, Nguyễn Tường Cẩm, Hoàng Lan Anh, Trần Đại… hay những người bạn Mỹ như Dick Beard và Chris Jenkins, tôi mới thấy được xã hội quanh ta thì nhỏ nhưng vấn đề thì mênh mông như thế giới. Và cũng qua những năm ở Dalat mà tôi hiểu được sự nặng nề của những di sản chính trị, tôn giáo, lịch sử trên vai của dân tộc đang khắc nghiệt tước bỏ những cơ hội cho đất nước nhìn về tương lai.
Bốn năm sống xa gia đình, tá túc dưới mái nhà Viện Đại học Dalat, chung quanh chỉ có bạn bè trong một thành phố cao nguyên an bình, người sinh viên cũng dần quen lối sống xem những người chung trường, chung đại học xá như một gia đình mới. Bốn mươi năm kể từ ngày rời ngôi trường mẹ đó, tôi chẳng gặp lại được bao nhiêu người ở đó. Và cái tình cảm đó như dần phôi pha bởi bao nhiêu việc trong đời sống hàng ngày vẫn phải vượt qua từ những ngày ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Cho đến buổi tối đó tại quán ăn Le Tonkinois ở Paris 13.
Tối đó tại Le Tonkinois, một nhóm cựu sinh viên trường Đại học Dalat nay đang sống tại Paris đã cho tôi niềm hạnh phúc bất ngờ được gặp gỡ các bạn. Không phải ai cũng học chung ngành, chung lớp với tôi. Và không phải ai cũng thuộc thế hệ tôi. Có một vài anh chị tôi chưa hề nghe tên, dĩ nhiên chưa hề biết mặt. Chị Liên Hương học đến khóa 8 Trường Chính trị Kinh doanh – sau tôi đến bảy năm. Anh Khoát khóa 6, và phu nhân, chị Mỹ Vân. Anh Bảng sau khi tôi ra trường bốn năm anh mới vào trường. Làm sao hiểu được những “người lạ” này có mặt ở đó nếu không nghĩ được rằng họ quá tử tế, quá khả ái. Sẵn sang với một người, với những người đã từng sống dưới mái trường đó như họ - mà chác họ cũng cảm nhận từ đáy sâu của con tim dó là ngôi trường mẹ của mình. Anh chị nào cũng hiền lành, dịu dàng, từ tốn, bỗng dưng tôi cảm thấy người Việt ở nơi này nơi khác thật khác nhau nhiều quá.
Với những người bạn cũ, 40 năm gặp lại để nhìn những thay đổi ở nhau. Để nhận ra con người thực sự ông trời sinh ra thế nào thì phải chịu thế nấy - chẳng có gì thay đổi được cả. Chị Nguyễn Ngọc Thương và phu quân, anh Nguyễn Minh Kính. Tôi chẳng nhớ đã bao giờ nói chuyện với chị trong những ngày trước chưa, vì hồi đó, tôi là một trong những người nhỏ con nhất, nhỏ tuổi nhất trong lớp. Nhưng chị Thương gây cho tôi một nỗi xúc động mạnh, như được tìm thấy trở lại một người chị thương yêu, trìu mến của mình. Bạn cùng lầu, cùng phòng ở Đại học xá Lê Đình Thông vẫn còn cách nói chuyện của thời còn làm chủ tịch Tổng hội Sinh viên Viện Đại học Dalat, vừa biểu lộ một niềm tin tuyệt đối của một chủng sinh, vừa nhiệt tình xúc động trước những hệ lụy trong tình người, vửa băn khoăn trước những câu hỏi làm được gì và không làm gì được cho đất nước. Mai Văn Thái làm cho tôi nhớ đến ông anh rễ của Thái là tướng Nguyễn Ngọc Loan. Mặc dù lấy vợ tây, nhưng Thái vẫn sôi nổi, hào hứng với bạn bè cũ. Anh vác đến đây mấy đặc san cũ của cựu sinh viên trường Dalat để nhác nhờ nhau những kỷ niệm ngày xưa. Và hôm đó còn có cả Lưu Văn Dân, hát hay hơn cả Tây, diễu hay hơn của Thanh Hoài; Đinh Hùng, một thời trong nhóm “trâu bò” ở Dalat, Nguyễn Khánh Chúc, một người quá đứng đắn từ hồi còn đi học so với một người cũng nghịch ngợm hồi còn đi học là tôi. Và Thụy Khanh Lê Thị Hảo. Chị từng ở chung nhà trọ 79 Võ Tánh, và sau đó thì đi làm tiếp viên hàng không. Dĩ nhiên, thời đó, với chị, tôi chỉ đứng nhìn lên. Nay ngồi nhìn ngang, có những tình cảm nhẹ nhàng: hóa ra thời đó mình chẳng biết gì nhau cả.
Chúng tôi không nói chuyện với nhau về những trắc trở ai cũng có trong đời, nhưng man mác thổ lộ những trăn trở trước cuộc sống, những chuyện vui của một thời đã qua hơn là những trò thế thái nhân tình hiện tại. Có lúc, chúng tôi cùng hát chung một vài bài của một thời đã mất, Tạ Từ của Tô Vũ, cho thấy quá khứ vẫn còn bám nặng trong tâm hồn của mỗi người.
Chúng ta rồi ai cũng đến bờ. Trong cuộc hải trình trên bể khổ mênh mông đó, hình như nghị lực để chúng ta đến đích chính là sự sẵn sàng ở mỗi người sống với những niềm vui nhẹ nhàng và dành cho những người khác những niếm vui nho nhỏ, nhẹ nhàng như thế.
Hoàng Ngọc Nguyên
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen