CHUẨN BỊ “TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN”
Hoàng Ngọc Nguyên
Cho đến bây giờ, dường như tất cả những nhà nghiên cứu kinh tế đều đã điều chỉnh những ước tính, dự báo của họ về cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Cách đây năm sáu tháng, người ta nói rằng có lẽ khó khăn kéo dài đến cuối năm mới qua được vận hạn. Thị trường nhà cửa có thể đầu sang năm mới trở lại hoạt động nhộn nhịp. Đến khoảng đầu tháng chín, trong tuần lễ chính phủ quyết định giải cứu hai công ty Freddie Mac và Fannie Mae, người ta lo rằng cuộc suy thoái có thể choán hết nửa năm đầu trong năm tới. Lúc đó, người ta chưa thấy được sự suy thoái đã vào tận lòng người, giá xăng đã xuống, nhưng không xuống đến mức như hiện nay. Chẳng ai mong giá xăng lên, nhưng khi giá xăng lên mà việc tiêu thụ xăng không lên, thì quả là điếu đáng suy nghĩ, nếu không nói là đáng lo ngại. Đến nay, những người dự báo kinh tế bắt đầu nhìn xa hơn năm 2009. Diễn đàn Họp tác Kinh tế châu Á và Thái Bình Dương (APEC) họp tại Lima, Peru, cuối tuần vừa qua đưa ra một dự báo lạc quan: trong 18 tháng nữa, mặt trời sẽ lên trở lại. Nhưng ông Thủ tướng Canada Stephen Harper lại nhanh chóng khẳng định khi chưa lên máy bay rời khỏi thủ đô Peru: Nói thì nói vậy thôi. Chẳng có cơ sở gì để có thể cho rằng khủng hoảng hiện nay chỉ kéo dài một năm rưỡi thôi. Ông nói rằng cái câu “18 tháng thì xong” chỉ được thòng vào trong thông cáo chung của diễn đàn 20 nước vào giờ chót theo yêu cầu của Tổng thống nước chủ nhà Alan Garcia để cho bản văn có giọng điệu “tích cực”.
Cơn đại hồng thủy
Ông Harper có cơ sở để yếm thế. Cứ nhìn tình hình ở Mỹ hiện nay, người ta cũng chưa thấy đâu vào đâu. Hôm thứ hai, 24-11, đầu tuần, chính phủ phải ra tay cứu Citigroup, tiêm 20 tỉ đô la vào đại ngân hàng này để cho ngân hàng có đủ “thanh khoản” (tiền mặt) để hoạt động, và bảo đảm cho hơn 300 tỉ đô la khách hàng đã ký thác vào đó. Tổng thống Bush họp báo tại Nhà Trắng, nói rằng chính phủ có thể phải ra tay cách đó với một số ngân hàng đại gia khác. Chương trình 700 tỉ cứu nguy khu vực tài chánh, ngân hàng, vẫn chưa đem lại sắc diện hồng hào trên cơ thể kinh tế, là vì ngân hàng sống bằng nghề nhận tiền ký thác và đầu tư, và đem tiến của thân chủ cho vay và đầu tư, nhưng bây giờ chẳng ai dám gởi tiền vào ngân hàng và ai cũng sợ hai chữ đầu tư. Người ta sợ hai chữ đầu tư bởi vì chính ngân hàng cũng còn sợ cho vay và đầu tư, đến mức bị tố là đang “tích trữ đầu cơ tiền mặt”! - huống gì ai. Khu vực ngân hàng như thế cho nên nguyên cả một hoạt động kinh tế rộng lớn, từ việc mua bán nhà cửa, xây dựng, cho vay… cũng bị tê liệt tiếp tục. Nhà vẫn bị kéo. Giá nhà cứ xuống. Những công ty làm nhà làm cửa nay đều đóng cửa. Cũng hôm thứ hai đầu tuần này, người ta nói rằng việc ba công ty xe hơi lớn ở Mỹ, Chrysler, G.M. và Ford, muốn sập tiệm có thể có những tác hại không lường được với những ngân hàng lâu nay vẫn xem những công ty này là khách hàng sộp. Tổng số nợ của ba công ty này với các ngân hàng lên đến cả trăm tỉ đô la. Làm sao mà ngân hàng có thể kéo cả triệu cái xe hơi để siết nợ. Rồi những công ty bán đồ lót bị sạt nghiệp thì sao?
Khi hàng loạt những công ty dịch vụ, kỹ nghệ lao đao, khốn đốn, hàng loạt khu vực kinh tế quan trọng trở nên tê liệt hay trì trệ, người ta nghĩ ngay đến sự đe dọa của nạn thất nghiệp. Ảnh hưởng của kinh tế có tính lây lan rất nhanh. Chỉ nghĩ đến những người đang làm trong các ngành ngân hàng, tài chánh, địa ốc, xây dựng, buôn bán xe hơi, sản xuất bộ phận rời, phụ tùng… cung cấp cho các đại công ty… ta đã thấy rùng rợn cho thân phận con người trong cơn suy thoái. Nhưng nếu kinh tế đi lên được là nhờ hiệu quả số nhân, các nhà kinh tế gọi là multiplier effect, thì đi xuống nhanh như thang máy cũng nhờ cái số nhân tai ác này. Cái hay của hiệu quả dây chuyền trong đời sống kinh tế, đời sống xã hội cũng chính là cái hại của hiệu quả dây chuyền. Bởi vậy mới có chuyện Robinson Crusoe thích ra sống một mình trên hoang đảo.
Cái tai hại của nạn thất nghiệp không chỉ là vì một số người không có công ăn việc làm ở những khu vực suy thoái. Nó tai hại là ở chỗ dần dần một số người khác cũng trở nên thất nghiệp vì những người đã thất nghiệp. Khi người ta thất nghiệp, hay sợ thất nghiệp, hay không cảm thấy an tâm, người ta sẽ không mua sắm gì nữa cả. Sức mua giảm, số cầu tất nhiên xuống, và những người cung cấp hàng hóa, dịch vụ sẽ phải co cụm lại. Sản lượng quốc gia vì thế đi xuống, nạn thất nghiệp vì thế đi lên. Người ta đều hiểu hiện nay thất nghiệp đã lên tỷ lệ 6.5%. Đó là con số chính thức. Con số thực sự là bao nhiêu nếu chúng ta tính tới những người chán quá không muốn đi xin việc nữa, những người già cần đi làm mà không có việc cho họ xin, những thiếu niên cần việc làm lai rai nhưng thời buổi này không còn có gì lai rai, những người không tiện khai báo tình trạng vô công rỗi nghề của mình vì họ “không có giấy tờ hợp pháp”. Số người này chính thức lên đến 12 triệu. Bên cạnh con số chính thức bao giờ cũng có con số không chính thức làm người ta nhức đầu.
Người ta cho biết chỉ trong 12 tháng qua, tổng số “thuần” người bị mất công ăn việc làm (số người bị mất việc trừ đi số người kiếm được việc) đã lên đến 1.2 triệu người. Tổng số người thất nghiệp “chính thức” trong toàn xã hội là 10.1 triệu. Trong tuần lễ chấm dứt vào ngày thứ bảy 15-11, số người nộp đơn xin UI bewnefit (phúc lợi bảo hiểm thất nghiệp – unemployment insurance benefit) đến con số kỷ lục 564.000! Điều đáng sợ là những con số này có thể sẽ chẳng thấm vào đâu nếu so với những con số người ta dự báo cho ba tháng sắp đến, sáu tháng sắp đến! Nhiều người phải ngồi tựa sâu vào ghế cho khỏi chóng mặt khi đọc được con số dự báo tỷ lệ thất nghiệp sẽ lên đến mức 8% hay hơn nữa vào tháng ba sang năm! Ở California, trong 12 tháng qua, cả tiểu bang mất hơn 101.000 công việc, riêng Orange County có đến 35.000 việc làm biến mất. Những nhà “truyền thông”, những nhà hoạt động biểu tình chuyên nghiệp tính rằng có thể nhờ tình trạng này mà lực lượng của họ đông hơn, nhưng cũng có thể trong cơn ngao ngán tình hình, nhiếu người sẽ chẳng còn muốn xuống đường trong khi bụng đói!
Thái lai hồi nào?
Vấn đề là chẳng ai dám nói khi nào đến hồi thái lai. Ông Tổng thống Bush là người rất đặc biệt, nhất là vào lúc này, ông sắp từ giã chúng ta, và ông cũng muốn thấy có ít nhất vài người còn vẫy tay khi ông rời Nhà Trắng tuy không hẹn ngay tái ngộ với ông. Thông thường ông chẳng làm gì cả, nhất là về mặt kinh tế, khi người ta phàn nàn ông làm kinh tế theo kiểu “cảm tính”, “duy ý chí”, cho nên rất dễ hư bột hư đường. Nhưng khi có người nhắc thì ông làm. Cả tuần vưa qua, người ta trách ông, dù sao ông cũng còn trách nhiệm đến 20-1. Ông đã ra đi đâu mà chẳng làm gì cả trong khi tình thế nghiêng ngả. Cho nên cuối tuần qua ông ký vào luật mở rộng trợ cấp thất nghiệp thêm 7-13 tuần nữa. So far, so good. Nhưng sau 13 tuần thì sao?
Người ta cũng nói ông Obama không thể đợi đến ngày 20-1 mới hành động mà phải tìm cách tác động vào ông Bush. Cho nên hai người lại phải hẹn gặp nhau trong tuần này. Trong khi chờ đợi, ông Obama cho thấy ông không ngồi yên. Hôm thứ hai, tuyên bố cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay là ở “qui mô chưa từng có trong lịch sử” (unprecedented proportions), ông đã loan báo đội ngũ lãnh đạo kinh tế của mình, với ông Timothy Geithner, Chủ tịch Ngân hàng Liên bang New York, là Bộ trưởng Ngân khố thay ông Henry Paulson của Tổng thống Bush đảm trách việc tiếp cứu các ngành kinh doanh lâm nguy, ông Larry Summers, nguyên là Bộ trưởng Ngân khố dưới thời ông Bill Clinton, nguyên viện trưởng Viện Đại học Harvard, làm Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia (National Economic Council). Obama cũng chọn nữ giáo sư kinh tế học Christina Romer thuộc Đại học Berkeley làm người đứng đầu Hội đồng Cố vấn Kinh tế (Council of Economic Advisers). Hôm thứ bảy, 22-11, trước sự khẩn trương, thúc bách của tình hình, ông Obama loan báo một kế hoạch tạo ra 2.5 triệu công ăn việc làm trong vòng hai năm, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng cầu đường, hiện đại hóa giáo dục, phát triển nguồn năng lượng thay thế…
Trong thực tế, ngắn hạn và dài hạn, ông Bush không có chọn lựa đã đành, mà cả ông tân cử Obama cũng chẳng có mấy chọn lựa. Mục tiêu số 1 của ông là tạo công ăn việc làm, nhưng tạo công ăn việc làm khó ở chỗ công ăn việc làm chỉ “ra” khi nền kinh tế có sự kích thích nào đó. Cách duy nhất cho “ra” công ăn việc làm khi tình hình đi xuống là nhà nước mở ra những chương trình làm đường, làm xá, xây dựng nhà trường - người ta gọi là tiên tài trợ hay tài trợ bằng thiếu hụt ngân sách, deficit financing, một chính sách ít nhiều lộng hiểm nếu nhà nước vốn đã mắc nợ nhiều quá. Ông Obama hứa $3.000 cho một đầu người đối với những chủ xí nghiệp, nhưng khi người ta mướn người để làm việc không phải vì khoản thưởng đó mà vì tính rằng có thể bán được hàng! Một loại biện pháp khác như ta đã thấy đê vỡ đâu, dậm vá chỗ đó, công ty nào sập tiệm, nhà nước lại nhảy vào cứu – có lẽ còn nhân từ hơn cả nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa ngoảnh mặt khi công ty quốc doanh vỡ nợ. Và một loại biện pháp thứ ba cũng có tính cách nhân đạo nhưng trực tiếp với cá nhân những nạn nhân: trợ cấp thất nghiệp, tha thuế, hoãn nợ…
Hôm thứ hai, ông Obama đã để lộ rõ hai điều: thứ nhất, tình thế hiện nay là khẩn trương, cấp bách, không thể có một lúc nào ngơi nghỉ; thứ hai, có thể phải chờ đến năm 2011, tức là hơn hai năm nữa, mới có thể hy vọng là nền kinh tế trở lại bình thường.
If tomorrow ever comes
Nếu ngày mai có đến… Chúng ta làm sao sống từ đây đến ngày đó. Và Chúng ta sẽ như thế nào đây. Chúng ta đây vừa là người Mỹ. Chúng ta đây cũng là cộng đồng người Việt ở Mỹ. Chúng ta có thể khó khăn hơn mọi người khác vì điều kiện vật chất của những người di dân mới, hay thoải mái hơn mọi người khác nhờ đã quen sống trong cảnh khổ, nhưng chúng ta cũng phải như mọi người Mỹ khác ở chỗ phải hiểu hoàn cảnh sống của mình và tập trung vào cuộc sống đó, trước là để giúp cho mình vượt qua thử thách “trường kỳ kháng chiến” trước mắt, và sau là góp phần nhỏ bé cho sự hồi phục của xã hội này, đất nước này.
Có nhiều điều người ta có thể vỡ lẽ trong cuộc khủng hoảng này. Cái chủ nghĩa tư bản vô địch của George Bush trong tám năm qua dưới bàn tay phù thủy của ông đã phơi bày đủ thói hư tật xấu: sự tham lam đến ích kỷ tàn ác của Wall Street; sự mê muội, đần độn thể hiện nơi giới quản lý kỹ nghệ xe hơi; và sự nông cạn, hời hợt của cá nhân con người khi chạy theo những lời hứa kiếm lợi dễ dàng trong nhà cửa. Cuối cùng là sự vô trách nhiệm đáng hỗ thẹn của chính quyền làm như đui mù, câm điếc trước sự phát tác của chủ nghĩa tư bản kiều Mỹ mà chính châu Âu cũng phê phán.
Tác giả Robert Samuelson viết trong Newsweek khủng hoảng rồi cũng qua đi, dù qua cách nào chưa chắc đã ai hình dung nổi, nhưng nước Mỹ thay đổi sẽ chỉ mới bắt đầu và còn tiếp tục. Khi nước Mỹ không hẳn là “đất hứa”, không còn rõ nét như một vùng đất của những cơ hội nữa, hay nó đòi hỏi con người phải nỗ lực triệt để trước khi mong đợi đất nước này giữ tròn lời hứa hay cơ hội đến trong tầm tay của mình, thì người ta phải thay đổi một cách toàn diện, tích cực những nếp tư duy, não trạng của mình cho phù hợp với tình hình mới. Ngay cả ở bên Canada, những người cấp tiến đang nói đến phải chấm dứt một xã hội sống bằng văn hóa welfare. Trong cuộc vận động bầu cử hiện nay, người ta không còn hứa trợ cấp cho người cao niên nữa mà kêu gọi những chính sách khuyến khích và tạo công ăn việc làm cho những người trên 65 tuổi.
Nếu nước Mỹ có gì thay đổi trong thời gian tới, hay phải thay đổi trong thời gian tới, điều thay đổi phải là tạo nên một xã hội của những người di dân có sự cam kết, có ý thức trách nhiệm của người dân đối với đất nước hơn để những khi có khủng hoảng như hiện nay, việc khắc phục sẽ nhanh hơn, dễ hơn, an toàn hơn so với tình hình hiện nay.
Hoàng Ngọc Nguyên
Cho đến bây giờ, dường như tất cả những nhà nghiên cứu kinh tế đều đã điều chỉnh những ước tính, dự báo của họ về cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Cách đây năm sáu tháng, người ta nói rằng có lẽ khó khăn kéo dài đến cuối năm mới qua được vận hạn. Thị trường nhà cửa có thể đầu sang năm mới trở lại hoạt động nhộn nhịp. Đến khoảng đầu tháng chín, trong tuần lễ chính phủ quyết định giải cứu hai công ty Freddie Mac và Fannie Mae, người ta lo rằng cuộc suy thoái có thể choán hết nửa năm đầu trong năm tới. Lúc đó, người ta chưa thấy được sự suy thoái đã vào tận lòng người, giá xăng đã xuống, nhưng không xuống đến mức như hiện nay. Chẳng ai mong giá xăng lên, nhưng khi giá xăng lên mà việc tiêu thụ xăng không lên, thì quả là điếu đáng suy nghĩ, nếu không nói là đáng lo ngại. Đến nay, những người dự báo kinh tế bắt đầu nhìn xa hơn năm 2009. Diễn đàn Họp tác Kinh tế châu Á và Thái Bình Dương (APEC) họp tại Lima, Peru, cuối tuần vừa qua đưa ra một dự báo lạc quan: trong 18 tháng nữa, mặt trời sẽ lên trở lại. Nhưng ông Thủ tướng Canada Stephen Harper lại nhanh chóng khẳng định khi chưa lên máy bay rời khỏi thủ đô Peru: Nói thì nói vậy thôi. Chẳng có cơ sở gì để có thể cho rằng khủng hoảng hiện nay chỉ kéo dài một năm rưỡi thôi. Ông nói rằng cái câu “18 tháng thì xong” chỉ được thòng vào trong thông cáo chung của diễn đàn 20 nước vào giờ chót theo yêu cầu của Tổng thống nước chủ nhà Alan Garcia để cho bản văn có giọng điệu “tích cực”.
Cơn đại hồng thủy
Ông Harper có cơ sở để yếm thế. Cứ nhìn tình hình ở Mỹ hiện nay, người ta cũng chưa thấy đâu vào đâu. Hôm thứ hai, 24-11, đầu tuần, chính phủ phải ra tay cứu Citigroup, tiêm 20 tỉ đô la vào đại ngân hàng này để cho ngân hàng có đủ “thanh khoản” (tiền mặt) để hoạt động, và bảo đảm cho hơn 300 tỉ đô la khách hàng đã ký thác vào đó. Tổng thống Bush họp báo tại Nhà Trắng, nói rằng chính phủ có thể phải ra tay cách đó với một số ngân hàng đại gia khác. Chương trình 700 tỉ cứu nguy khu vực tài chánh, ngân hàng, vẫn chưa đem lại sắc diện hồng hào trên cơ thể kinh tế, là vì ngân hàng sống bằng nghề nhận tiền ký thác và đầu tư, và đem tiến của thân chủ cho vay và đầu tư, nhưng bây giờ chẳng ai dám gởi tiền vào ngân hàng và ai cũng sợ hai chữ đầu tư. Người ta sợ hai chữ đầu tư bởi vì chính ngân hàng cũng còn sợ cho vay và đầu tư, đến mức bị tố là đang “tích trữ đầu cơ tiền mặt”! - huống gì ai. Khu vực ngân hàng như thế cho nên nguyên cả một hoạt động kinh tế rộng lớn, từ việc mua bán nhà cửa, xây dựng, cho vay… cũng bị tê liệt tiếp tục. Nhà vẫn bị kéo. Giá nhà cứ xuống. Những công ty làm nhà làm cửa nay đều đóng cửa. Cũng hôm thứ hai đầu tuần này, người ta nói rằng việc ba công ty xe hơi lớn ở Mỹ, Chrysler, G.M. và Ford, muốn sập tiệm có thể có những tác hại không lường được với những ngân hàng lâu nay vẫn xem những công ty này là khách hàng sộp. Tổng số nợ của ba công ty này với các ngân hàng lên đến cả trăm tỉ đô la. Làm sao mà ngân hàng có thể kéo cả triệu cái xe hơi để siết nợ. Rồi những công ty bán đồ lót bị sạt nghiệp thì sao?
Khi hàng loạt những công ty dịch vụ, kỹ nghệ lao đao, khốn đốn, hàng loạt khu vực kinh tế quan trọng trở nên tê liệt hay trì trệ, người ta nghĩ ngay đến sự đe dọa của nạn thất nghiệp. Ảnh hưởng của kinh tế có tính lây lan rất nhanh. Chỉ nghĩ đến những người đang làm trong các ngành ngân hàng, tài chánh, địa ốc, xây dựng, buôn bán xe hơi, sản xuất bộ phận rời, phụ tùng… cung cấp cho các đại công ty… ta đã thấy rùng rợn cho thân phận con người trong cơn suy thoái. Nhưng nếu kinh tế đi lên được là nhờ hiệu quả số nhân, các nhà kinh tế gọi là multiplier effect, thì đi xuống nhanh như thang máy cũng nhờ cái số nhân tai ác này. Cái hay của hiệu quả dây chuyền trong đời sống kinh tế, đời sống xã hội cũng chính là cái hại của hiệu quả dây chuyền. Bởi vậy mới có chuyện Robinson Crusoe thích ra sống một mình trên hoang đảo.
Cái tai hại của nạn thất nghiệp không chỉ là vì một số người không có công ăn việc làm ở những khu vực suy thoái. Nó tai hại là ở chỗ dần dần một số người khác cũng trở nên thất nghiệp vì những người đã thất nghiệp. Khi người ta thất nghiệp, hay sợ thất nghiệp, hay không cảm thấy an tâm, người ta sẽ không mua sắm gì nữa cả. Sức mua giảm, số cầu tất nhiên xuống, và những người cung cấp hàng hóa, dịch vụ sẽ phải co cụm lại. Sản lượng quốc gia vì thế đi xuống, nạn thất nghiệp vì thế đi lên. Người ta đều hiểu hiện nay thất nghiệp đã lên tỷ lệ 6.5%. Đó là con số chính thức. Con số thực sự là bao nhiêu nếu chúng ta tính tới những người chán quá không muốn đi xin việc nữa, những người già cần đi làm mà không có việc cho họ xin, những thiếu niên cần việc làm lai rai nhưng thời buổi này không còn có gì lai rai, những người không tiện khai báo tình trạng vô công rỗi nghề của mình vì họ “không có giấy tờ hợp pháp”. Số người này chính thức lên đến 12 triệu. Bên cạnh con số chính thức bao giờ cũng có con số không chính thức làm người ta nhức đầu.
Người ta cho biết chỉ trong 12 tháng qua, tổng số “thuần” người bị mất công ăn việc làm (số người bị mất việc trừ đi số người kiếm được việc) đã lên đến 1.2 triệu người. Tổng số người thất nghiệp “chính thức” trong toàn xã hội là 10.1 triệu. Trong tuần lễ chấm dứt vào ngày thứ bảy 15-11, số người nộp đơn xin UI bewnefit (phúc lợi bảo hiểm thất nghiệp – unemployment insurance benefit) đến con số kỷ lục 564.000! Điều đáng sợ là những con số này có thể sẽ chẳng thấm vào đâu nếu so với những con số người ta dự báo cho ba tháng sắp đến, sáu tháng sắp đến! Nhiều người phải ngồi tựa sâu vào ghế cho khỏi chóng mặt khi đọc được con số dự báo tỷ lệ thất nghiệp sẽ lên đến mức 8% hay hơn nữa vào tháng ba sang năm! Ở California, trong 12 tháng qua, cả tiểu bang mất hơn 101.000 công việc, riêng Orange County có đến 35.000 việc làm biến mất. Những nhà “truyền thông”, những nhà hoạt động biểu tình chuyên nghiệp tính rằng có thể nhờ tình trạng này mà lực lượng của họ đông hơn, nhưng cũng có thể trong cơn ngao ngán tình hình, nhiếu người sẽ chẳng còn muốn xuống đường trong khi bụng đói!
Thái lai hồi nào?
Vấn đề là chẳng ai dám nói khi nào đến hồi thái lai. Ông Tổng thống Bush là người rất đặc biệt, nhất là vào lúc này, ông sắp từ giã chúng ta, và ông cũng muốn thấy có ít nhất vài người còn vẫy tay khi ông rời Nhà Trắng tuy không hẹn ngay tái ngộ với ông. Thông thường ông chẳng làm gì cả, nhất là về mặt kinh tế, khi người ta phàn nàn ông làm kinh tế theo kiểu “cảm tính”, “duy ý chí”, cho nên rất dễ hư bột hư đường. Nhưng khi có người nhắc thì ông làm. Cả tuần vưa qua, người ta trách ông, dù sao ông cũng còn trách nhiệm đến 20-1. Ông đã ra đi đâu mà chẳng làm gì cả trong khi tình thế nghiêng ngả. Cho nên cuối tuần qua ông ký vào luật mở rộng trợ cấp thất nghiệp thêm 7-13 tuần nữa. So far, so good. Nhưng sau 13 tuần thì sao?
Người ta cũng nói ông Obama không thể đợi đến ngày 20-1 mới hành động mà phải tìm cách tác động vào ông Bush. Cho nên hai người lại phải hẹn gặp nhau trong tuần này. Trong khi chờ đợi, ông Obama cho thấy ông không ngồi yên. Hôm thứ hai, tuyên bố cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay là ở “qui mô chưa từng có trong lịch sử” (unprecedented proportions), ông đã loan báo đội ngũ lãnh đạo kinh tế của mình, với ông Timothy Geithner, Chủ tịch Ngân hàng Liên bang New York, là Bộ trưởng Ngân khố thay ông Henry Paulson của Tổng thống Bush đảm trách việc tiếp cứu các ngành kinh doanh lâm nguy, ông Larry Summers, nguyên là Bộ trưởng Ngân khố dưới thời ông Bill Clinton, nguyên viện trưởng Viện Đại học Harvard, làm Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia (National Economic Council). Obama cũng chọn nữ giáo sư kinh tế học Christina Romer thuộc Đại học Berkeley làm người đứng đầu Hội đồng Cố vấn Kinh tế (Council of Economic Advisers). Hôm thứ bảy, 22-11, trước sự khẩn trương, thúc bách của tình hình, ông Obama loan báo một kế hoạch tạo ra 2.5 triệu công ăn việc làm trong vòng hai năm, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng cầu đường, hiện đại hóa giáo dục, phát triển nguồn năng lượng thay thế…
Trong thực tế, ngắn hạn và dài hạn, ông Bush không có chọn lựa đã đành, mà cả ông tân cử Obama cũng chẳng có mấy chọn lựa. Mục tiêu số 1 của ông là tạo công ăn việc làm, nhưng tạo công ăn việc làm khó ở chỗ công ăn việc làm chỉ “ra” khi nền kinh tế có sự kích thích nào đó. Cách duy nhất cho “ra” công ăn việc làm khi tình hình đi xuống là nhà nước mở ra những chương trình làm đường, làm xá, xây dựng nhà trường - người ta gọi là tiên tài trợ hay tài trợ bằng thiếu hụt ngân sách, deficit financing, một chính sách ít nhiều lộng hiểm nếu nhà nước vốn đã mắc nợ nhiều quá. Ông Obama hứa $3.000 cho một đầu người đối với những chủ xí nghiệp, nhưng khi người ta mướn người để làm việc không phải vì khoản thưởng đó mà vì tính rằng có thể bán được hàng! Một loại biện pháp khác như ta đã thấy đê vỡ đâu, dậm vá chỗ đó, công ty nào sập tiệm, nhà nước lại nhảy vào cứu – có lẽ còn nhân từ hơn cả nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa ngoảnh mặt khi công ty quốc doanh vỡ nợ. Và một loại biện pháp thứ ba cũng có tính cách nhân đạo nhưng trực tiếp với cá nhân những nạn nhân: trợ cấp thất nghiệp, tha thuế, hoãn nợ…
Hôm thứ hai, ông Obama đã để lộ rõ hai điều: thứ nhất, tình thế hiện nay là khẩn trương, cấp bách, không thể có một lúc nào ngơi nghỉ; thứ hai, có thể phải chờ đến năm 2011, tức là hơn hai năm nữa, mới có thể hy vọng là nền kinh tế trở lại bình thường.
If tomorrow ever comes
Nếu ngày mai có đến… Chúng ta làm sao sống từ đây đến ngày đó. Và Chúng ta sẽ như thế nào đây. Chúng ta đây vừa là người Mỹ. Chúng ta đây cũng là cộng đồng người Việt ở Mỹ. Chúng ta có thể khó khăn hơn mọi người khác vì điều kiện vật chất của những người di dân mới, hay thoải mái hơn mọi người khác nhờ đã quen sống trong cảnh khổ, nhưng chúng ta cũng phải như mọi người Mỹ khác ở chỗ phải hiểu hoàn cảnh sống của mình và tập trung vào cuộc sống đó, trước là để giúp cho mình vượt qua thử thách “trường kỳ kháng chiến” trước mắt, và sau là góp phần nhỏ bé cho sự hồi phục của xã hội này, đất nước này.
Có nhiều điều người ta có thể vỡ lẽ trong cuộc khủng hoảng này. Cái chủ nghĩa tư bản vô địch của George Bush trong tám năm qua dưới bàn tay phù thủy của ông đã phơi bày đủ thói hư tật xấu: sự tham lam đến ích kỷ tàn ác của Wall Street; sự mê muội, đần độn thể hiện nơi giới quản lý kỹ nghệ xe hơi; và sự nông cạn, hời hợt của cá nhân con người khi chạy theo những lời hứa kiếm lợi dễ dàng trong nhà cửa. Cuối cùng là sự vô trách nhiệm đáng hỗ thẹn của chính quyền làm như đui mù, câm điếc trước sự phát tác của chủ nghĩa tư bản kiều Mỹ mà chính châu Âu cũng phê phán.
Tác giả Robert Samuelson viết trong Newsweek khủng hoảng rồi cũng qua đi, dù qua cách nào chưa chắc đã ai hình dung nổi, nhưng nước Mỹ thay đổi sẽ chỉ mới bắt đầu và còn tiếp tục. Khi nước Mỹ không hẳn là “đất hứa”, không còn rõ nét như một vùng đất của những cơ hội nữa, hay nó đòi hỏi con người phải nỗ lực triệt để trước khi mong đợi đất nước này giữ tròn lời hứa hay cơ hội đến trong tầm tay của mình, thì người ta phải thay đổi một cách toàn diện, tích cực những nếp tư duy, não trạng của mình cho phù hợp với tình hình mới. Ngay cả ở bên Canada, những người cấp tiến đang nói đến phải chấm dứt một xã hội sống bằng văn hóa welfare. Trong cuộc vận động bầu cử hiện nay, người ta không còn hứa trợ cấp cho người cao niên nữa mà kêu gọi những chính sách khuyến khích và tạo công ăn việc làm cho những người trên 65 tuổi.
Nếu nước Mỹ có gì thay đổi trong thời gian tới, hay phải thay đổi trong thời gian tới, điều thay đổi phải là tạo nên một xã hội của những người di dân có sự cam kết, có ý thức trách nhiệm của người dân đối với đất nước hơn để những khi có khủng hoảng như hiện nay, việc khắc phục sẽ nhanh hơn, dễ hơn, an toàn hơn so với tình hình hiện nay.
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen