THẾ SỰ THĂNG TRẦM
Hoàng Ngọc Nguyên
Bà Corazon Aquino, tổng thống thứ 11 của nước Phi Luật Tân từ năm 1986 đến 1992, rạng sáng thứ bảy đã qua đời sau hai tháng chống chỏi với tử thần trong một bệnh viện tại thủ đô Manila. Tuy đứng từ bờ biển Vũng Tàu người ta có thể thấy được xa xa Phi Luật Tân, một nước từng gởi những toán dân sự vụ qua miền nam trong thời chiến tranh Việt Nam (PHILCAGV – Phillippine Civil Action Group in Vietnam), nhưng có lẽ ở Việt Nam người ta chẳng mấy người biết bà bởi vì thành tích của bà trong cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và lật đổ chế độ độc tài từng trường trị 20 năm tại Phi Luật Tân của Tổng thống Ferdinand Marcos. Nhưng trong quần chúng hiểu biết trên thế giới, nhất là ở phương tây, bà Aquino là một trong số ít những lãnh đạo các nước châu Á đã ghi được những ấn tượng đậm nét. Cuộc đời chính trị của bà cho chúng ta những cảm khái sâu đậm cũng như những thất bại của bà là những bài học chính trị sâu sắc khó thể bỏ qua.
Khi ra tranh cử tổng thống chống lại Marcos, người đã làm “tổng thống trọn đời” từ năm 1966 với sự bảo trợ của cả Tổng thống Nixon và cố vấn của ông ta là Henry Kissinger, bà quả phụ Aquino ghi nghề nghiệp của mình là “nội trợ”. Năm đó bà được 53 tuổi. Không ai có thể nói bà có tham vọng chính trị. Cho cùng, những người hiểu biết sử Việt có thể ví bà như bà Trưng Trắc. Bà ra tranh cử vì thù chồng nợ nước. Trước khi chồng bà bị giết ngay tại phi trường Manila năm 1983, bà đúng là một người nội trợ chỉ biết có một việc nâng khăn sửa túi cho chồng, nhà báo và sau đó là thượng nghị sĩ Benigno “Ninoy” S. Aquino Jr. Thuở nhỏ, người ta nói bà sống trong nhung lụa vì cha mẹ của bà là chủ một đồn điến trống mía mênh mông ở đảo Luzon. Sau Đệ nhị Thế chiến, gia đình bà di cư qua nước Mỹ, và bà theo học trung học ở New York và Philadelphia và tốt nghiệp đại học khoa Pháp ngữ tại trường Mount St. Vincent College ở New York. Sau đó bà trở lại quê nhà, theo học trường luật được một năm, nhưng xem chuyện lập gia đình quan trọng hơn. Năm 1954, khi mới 21 tuổi, cô Corazon Cojuangco đã trở thành bà Corazon Aquino.
Ông Aquino chỉ hơn bà một tuổi, nhưng bắt đầu sự nghiệp chính trị ngay khi lập gia đình. Ông đã từng là thị trưởng của một thành phố lớn, một thống đốc một tỉnh, một nhà báo nổi tiếng với khuynh hướng tự do. Năm 1965 Marcos đắc cử tổng thống. Năm 1967, Aquino đác cử thượng nghị sĩ và nổi lên như một nhân vật đối lập hàng đầu ở tuổi 35. Marcos tái đắc cử vào năm 1969, và trước cuộc bầu cử năm 1973 một năm, mà người ta nói chắc chắn ông Aquino sẽ ra tranh cử đối lập với Marcos, thì Marcos tuyên bố lệnh thiết quân luật, hiển nhiên là nhằm đối phó với tình trạng chính trị hỗn loạn cùng với sự nổi dậy của các lực lượng phiến loạn của cộng sản và Hồi giáo, nhưng cũng mở đường một cách hợp pháp cho ông ta thi hành một chế độ độc tài kéo dài đến 14 năm sau. Sau này người ta nói đến sự ủng hộ của Kissinger với Marcos vì “tình sâu nghĩa nặng” của ông ta với bà Imelda, Đệ nhất Phu nhân của Phi Luật Tân, người được xem là có tủ áo và tủ giày lớn nhất thế giới. Marcos giải tán Quốc Hội vô thời hạn và bắt bỏ tù nhiều nhân vật đối lập hàng đầu – dĩ nhiên danh sách bị sổ đen có ông Aquino đứng hàng đầu. Ông bị tù đến tám năm - từ 1972 đến 1980. Sau đó, dưới áp lực của quốc tế, nhất là của Tổng thống Jimmy Carter, Marcos phải thả ông và để cho ông đi Mỹ để thông tim.
Corazon chẳng ưa gì chính trị. Người ta nói rằng bà thích nếp sống tự do phóng khoáng ở bên Mỹ và thấy lối sống chính trị và xã hội ở Phi Luật Tân là tù túng và không thoải mái với bà. Nhưng bà lại có cốt cách quí phái của một mệnh phụ người Á Đông. Bà chăm lo nuôi dạy con cái. Bà kính trọng và hỗ trợ vai trò chính trị của chồng, nhưng bà khiêm nhường không ra đứng bên cạnh mà luôn luôn đứng sau, lẫn trong đám người đi theo chồng để lắng nghe chồng nói. Ngay cả trong tám năm chồng bị tù, bà cần mẫn thăm nuôi chông, nhưng cũng không tiếp xúc trả lời phỏng vấn báo chí hay lên tiếng chỉ trích, công kích Marcos độc tài. Năm 1978, bà mới xuất hiện với bài diễn văn chính trị đầu tiên trong cuộc vận động tranh cử dân biểu cho chồng, vì chồng bà vẫn đang còn nằm tù, mặc dù bà chẳng ủng hộ ý định của chồng.
Tất cả đều thay đổi sau khi chồng bà bị ám sát ngay tại phi trường Manila vào ngày 21-8-1983. Với một lực lượng bảo vệ an ninh dày đặc do chính Marcos đặc phái, ông Benigno Aquino vẫn bị bắn hai phát nát đầu, một cái chết mà người ta đều hiểu ngay là một âm mưu của cả hai vợ chồng ông Marcos. Vài ngày sau, bà Aquino từ Mỹ trở về, dẫn đầu một đám đông lên đến 2 triệu người đi sau quan tài của chồng bà. Bà trở thành một biểu tượng của đối lập tại Manila từ đó. Năm 1986, Marcos tổ chức bầu cử tổng thống bất thường. Những thế lực đối lập ở Phi Luật Tân đưa bà ra, bà định từ chối, và còn định chỉ đứng phó, nhưng người ta vẫn đẩy bà lên vì họ tin rằng chỉ có bà mới thắng được Marcos. Phía những người cầm quyền có ý nhạo báng bà chẳng có kinh nghiệm gì về chính trị, nhất là khi bà ghi nghề nghiệp là “housewife”. Ngay chính bà, khi họp báo, bà Corazon cũng thành thực nói: “Tôi biết gì về việc làm tổng thống này nhỉ?” Nhưng sau đó, bà nói rõ: “Quả đúng như vậy. Tôi không có kinh nghiệm nói dối, lừa gạt, ăn cắp, và giết người. Tôi xin cống hiến cho đồng bào sự lương thiện, trung thực trong lãnh đạo”.
Với màu áo vàng muôn thuở trong suốt cuộc vận động tranh cử, bà nổi lên như một người góa phụ thiên thần trong lòng quần chúng, một phụ nữ cô đơn nhưng thừa can đảm để theo đuổi sự nghiệp của chồng, cùng với một mối hận với những kẻ đã giết chồng mình và một lý tưởng dân chủ, tự do cho đất nước. Cả ông Marcos độc tài cũng như bà Imelda quỷ quái thất bại trong mưu chước bạo lực vì quân đội đã dần dần chuyển hướng và quay qua ủng hộ bà. Hai vợ chồng đều phải lên máy bay trốn thoát khỏi nước.
Sự nghiệp tổng thống của bà Corazon Aquino không được xem là thành công, kinh tế vẫn không phát triển, tài phiệt vẫn thao túng, quân đội vẫn còn lung lăng, chính khách vẫn còn lăng nhăng. Nhưng người ta không thề quên được những gì bà đã làm được mà phía nam giới phái mạnh không làm được, đó là lật đổ một chế độ độc tài, tham nhũng, là sự tái lập tự do, dân chủ và hòa bình ở Phi Luật Tân, là sự trở lại của tự do báo chí và niềm tin nơi người dân, và sự hồi phục niềm tin và lối sống có tín ngưỡng ở Phi Luật Tân.
Nếu những thành tích đó chưa thể là đầy đủ đối với bà, chúng ta chỉ cần nhắc lại thêm nữa vế tư cách của bà: người ta nói bà đếm từng ngày cho đến khi rời được Điện Malacanang, nhưng trước những kẻ thù đòi lật đổ bà, bà đã thề sẽ ở lại dinh tổng thống cho đến ngày cuối – và bà giữ được lời. Bà vẫn chẳng có mấy thiện cảm với chính trị và dồn hết con tim của bà cho gia đình, con cái. Bà chẳng màng gì đến danh vọng, rút lui vui vẻ, nhưng lại sẵn sàng xuống đường cùng quần chúng ít nhất trong ba lần: ngăn chận Tổng thống Fidel Ramos (1992-1998) âm mưu viết lại hiến pháp để tái ứng cử; lên án Tổng thống kép hát Estrada tham nhũng tệ hại dẩn đến việc truất phế ông ta vào năm 2001; và tố cáo bà đương kim tổng thống Gloria Macapagal Arroyo gian lận phiếu năm 2004 và để chồng giật dây nhiều quá (giống bà Palin). Ba người tổng thống sau bà đều là những chính trị gia “chuyên nghiệp” như thế, họ phải thỏa hiệp với đủ mọi thế lực quân đội và tài phiệt. Làm sao một người chủ trương “lưong thiện và trung thực” như bà có thể thành công được.
Nhưng cũng có thể nhắc lại rằng bà là nữ tổng thống đầu tiên và hiếm hoi cho toàn khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Chưa một phụ nữ nào ở Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Malaysia, lên được vị trí của bà - ngoại trừ sau đó ở Indonesia có bà Megawati Sukarnoputri con gái của Tổng thống Sukarno cũng trở thành nguyên thủ quốc gia. Và cuộc vận động dân chủ của bà thành công trong một nghĩa nào đó đã mở đầu một cuộc cách mạng dân chủ toàn cầu chứng kiến sự sụp đổ của Bức tường Bá Linh và chế độ Liên Xô…
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen